ToànThể BảnVăn
Home ] Lời Giới-Thiệu ] Chương-I ] Chương-II ] Chương-IIa ] Chương-III ] Chương-IIIa ] Chương-IV ] Chương-V ] Chương-VI ] Chương-VII ] Chương-VIII ] BàiViết LiênHệ ] [ ToànThể BảnVăn ] Photo Album ] DanhSách DuyệtSách ] DanhBạ SĩQuan HQVNCH ] DanhBạ SĩQuan HQVNCH(tiếp) ]


 

 

H́nh B́a - bao cả trang đầu và trang cuối, dùng làm jacket

 

 

 

 

 

Lược-Sử Tổ-Chức Hải-Quân

 Việt-Nam Cộng-Ḥa

 

 

Ấn-bản đầu tiên c̣n nhiều sai-nhầm và thiếu-sót. Kính xin độc-giả lượng-thứ và giúp tài-liệu sửa chữa cùng ư-kiến bổ-túc cho lần tái-bản được hoàn-hảo hơn.

 Vũ-Hữu-San

 

 

 Tổng-Hội Hải-Quân Hàng-Hải VNCH phát-hành

 

Mục-Lục

 

Chương 1- Bối-cảnh tổng-quát thời khai-sinh Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa.

Chương 2- Giai-đoạn h́nh-thành (1952-1957) sau những khó-khăn khi dựng lại cờ Tổ-Quốc, thành-đạt các khuôn-thước căn-bản.

Chương 3- Giai-đoạn phát-triển (1957-1967) cho dù thiếu-thốn phương-tiện.

Chương 4- Giai-đoạn bành-trướng (1967-1972) và bộc-phát theo nhu-cầu chiến-trường.

Chương 5- Giai-đoạn trưởng-thành (1972-1974) hoàn-thiện về tổ-chức

Chương 6- Năm 1975, đột-ngột bị khai-tử khi Cộng-Sản Bắc-Việt chiếm miền Nam.

Chương 7- Hệ-thống Tổ-chức Tổng-quát Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa

Chương 8- Tổ-chức Hành-chánh các Đại-đơn-vị và Đơn-vị tiêu-chuẩn.

Chương 9- Những cái Nh́n Sử-quan.

Tài-liệu tham-khảo

 

Phụ-bản

 

1- Tên các Viên-Chức Dân-Sự và Quân-Sự Việt-Nam liên-hệ đến Hoạt-động của HQVNCH.

2- Những Chữ viết tắt thường dùng trong các Văn-thư Tổ-chức.

3- Đặc-tính, H́nh-ảnh Chiến-hạm, Chiến-đĩnh.

4- Các Chiến-đĩnh Giang-Lực tại Việt-Nam 1946-1953.

5- Huy-Hiệu các Đơn-Vị Hải-Quân và TQLC/VN 

6 - Quân-phục, Huy-chương

7- Bản Tra-Cứu theo Mẫu-Tự (Index - chỉ hoàn-tất trước khi in)

8- Danh-sách Quư-vị duyệt-lăm và tu-chỉnh

 

 

Bài Viết Liên-hệ

 

1- Bối-cảnh khai-sinh QĐVN (Bài của BTTM/Pḥng 5/Quân-Sử

2- Hải-Quân Việt-Nam C̣n Mất thế nào (Bài nói chuyện của Tác-giả về Hải-Sử)

 

  

 

 


 

Huy-hiệu Tổ-Quốc Đại-Dương


 

Chương 1

 

Bối-cảnh Lịch-sử Khai-sinh Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa

 

Việt-Nam trong ngọn gió dân-chủ toàn-cầu

            Gần một thế-kỷ sau khi Hải-Quân Việt-Nam thời nhà Nguyễn bị tan-ră trước quân xâm-lăng người Pháp[1], một Hải-Quân của Quốc-gia Việt-Nam lại ra đời.[2]

            Tiến-tŕnh thành-lập và phát-triển quân-chủng Hải-Quân có nhiều điểm đặc-biệt không giống như hai quân-chủng bạn là Lục-Quân và Không-Quân.

 

 

Các Chiến-hạm Hải-Quân Pháp oanh-tạc Đà-Nẵng năm 1858, mở đầu cuộc xâm-lăng nước ta.

 

 

Sau khi oanh-tạc, Hải-Quân Pháp đổ-bộ tấn-công Đà-Nẵng tháng 9 năm 1858 nhưng không thành-công; chúng đổi kế-hoạch, tấn-chiếm Sài-G̣n.

 

            Trong bối-cảnh xă-hội đổi thay sau Thế-chiến II, các sử-gia nhận ra hai biến-chuyển lớn lao đă tác-động lên số-phận của nhân-loại:

- (1) nỗi bất-hạnh của 1/3 nhân-loại v́ sự bành-trướng của "Bức Màn Sắt" Cộng-Sản Stalinist[3], và

- (2) cơ-hội lớn lao cho các nước Á-Phi dành lại quyền tự-do dân-chủ.[4]

            Người Việt không những đă phải chịu nỗi bất-hạnh v́ ách Cộng-Sản mà c̣n mất đi luôn cái cơ-hội được làm con dân một nước dân-chủ. Trong khi tất cả trái đất đă im tiếng súng th́ riêng tại Việt-Nam, chiến-tranh vẫn tiếp-diễn và c̣n bành-trướng khủng-khiếp khắp cả Bắc Trung Nam, kéo dài hàng thế-hệ.

            Vào khoảng 1952[5], quân-đội Pháp hiện-diện ở Việt-Nam. Tuy vậy ảnh-hưởng của thực-dân Anh, Pháp, Đức, Ḥa-Lan... đă suy-yếu hẳn trên khắp các thuộc-địa. Những luồng gió mới "quốc-gia độc-lập, thể-chế dân-chủ, sinh-hoạt tự-do" thổi mạnh trên toàn-thể thế-giới.

Sau khi cướp chính-quyền năm 1945, giới lănh-đạo Cộng-Sản Việt-Nam chính-thức đặt quyền-lợi của Đảng lên trên quyền-lợi quốc-gia dân-tộc. Họ ra mặt phục-vụ cho tập-đoàn Cộng-Sản Mạc-Tư-Khoa - Bắc-Kinh. Cộng-Sản Việt-Nam bắt đầu xung-phong thi-hành nghiă-vụ "Quốc-tế Vô-sản".[6] Ở trong nước, họ tiêu-diệt mọi phần-tử quốc-gia, đưa chiêu-bài giai-cấp đấu-tranh, tàn-sát phú-nông địa-chủ, loại bỏ người trí-thức, và nguy-hiểm nhất là dập khuôn đi theo Trung-Cộng, kẻ thù truyền-kiếp của dân-tộc.

Quốc-Trưởng Bảo-Đại (H́nh trong Tem thơ 1 đồng 20 xu).

Lưu-ư h́nh con rồng chính là một yếu-tố mẫu mực cho các huy-hiệu của HQVN thời thành-lập.

 

Các Lực-Lượng Vỏ -trang kháng Pháp

            Khi bộ-đội Việt-Minh thành-h́nh, các đảng-phái quốc-gia cũng đă thành-lập được những lực-lượng vũ-trang. Ban đầu các lực-lượng này đă kết-hợp với chính-phủ Việt-Minh để thành-lập một chính-phủ liên-hiệp, nhưng Việt-Minh bởi bản-chất chỉ là một đảng Cộng-Sản trá-h́nh, nên đă không có ḷng thành-thực để tạo thế đại-đoàn-kết dân-tộc trong việc chống giặc[7]. Việt-Minh chỉ tạo-dựng một sự kết-hợp giả-tạo theo từng giai-đoạn. Không những vậy, họ c̣n t́m cách tiêu-diệt các đảng-phái đối-lập để nắm quyền lănh-đạo độc-tài, đảng-trị...[8]

            Quân-đội Việt-Minh tuy tự-ư mang danh-nghiă là Quân-Đội Nhân-Dân nhưng thực-chất không phục-vụ nhân-dân Viê-Nam mà chỉ là một thứ công-cụ sai-phái của đảng Cộng-Sản. Hiến-Pháp do họ viết ra đă quy-định rơ-ràng: “Quân-đội nhận lệnh trực-tiếp từ Đảng.”[9]

            Nhiều thanh-niên Việt-Nam yêu thích tự-do, ôm mộng hải-hồ, có tinh-thần quốc-gia dân-tộc, không chấp-nhận Cộng-Sản độc-tài đảng-trị, chẳng muốn làm tay sai cho Nga Hoa; đă gia-nhập Hải-Quân Việt-Nam (HQVN).

 

 

Các H́nh-ảnh đầu tiên về HQVN

 

            Lúc đó, t́nh-trạng chính-trị tại các nước Anh, Pháp rất bất-ổn. Tại Pháp-Quốc, nhiều chính-phủ theo nhau đổ liên-tiếp. Khi người Pháp nhận-thức được sức mạnh của tinh-thần quốc-gia dân-tộc, họ đă phải trả một giá đắt cho cuộc chiến-tranh và đành rút lui ra khỏi những nước Đông-Dương cũng như tại các thuộc-địa khác ở Bắc-Phi. Cho đến 1958,[10] Tổng-Thống Pháp De Gaulle phải chính-thức nh́n-nhận quyền tự-trị của các dân-tộc xưa kia thuộc Pháp. Hải-Quân Việt-Nam, một số từng hành-thủy, nay có nhiều dịp xuất-ngoại, tiếp-xúc với với thế-giới bên ngoài nên tầm nh́n có phần rộng răi và ư-thức về tinh-thần dân-tộc cao.[11]

            Mang trong người ḍng máu Việt, với truyền-thống hàng-hải chảy mạnh trong huyết-quản kể từ những ngày Lạc-Việt viễn-dương đi khắp nẻo biển trời, những chàng trai ấy đă hợp-sức nhau nối lại ḍng Hải-sử đứt đoạn của tiền-nhân, xây-dựng nên một Hải-Quân hùng-mạnh[12]. Và đặc-biệt vào năm 1974, tuy biết rằng yếu thế, không đủ lực-lượng, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa (HQVNCH) cũng cương-quyết đứng lên chống Trung-Cộng[13] xâm-lấn hải-biên.

 

 

Hồ-Chí-Minh và Mao-Trạch-Đông

 

Công-Lao Của Cộng-Sản VN dâng cho Thiên-đàng Cộng-sản

Người Công-Sản Việt-Nam tự nhận những "Công-Lao Kháng Pháp, Diệt Mỹ" là của họ. Khi thăm viếng Thái-Lan, Thủ-Tướng Phạm Văn Đồng khoe-khoang chiến-thắng 1975, đại-ư nói rằng nhờ có sự sáng-suốt của đảng CSVN mà họ toàn-thắng, cho dù đă phải hy-sinh nhiều triệu người, nay đất nước đă thống-nhất. Thủ-tướng Thái-Lan sau khi chúc mừng viên Thủ-Tướng Cộng-Sản một cách rất ngoại-giao, đă b́nh-thản đáp lời: “Thái-Lan chúng tôi ‘may mắn’ không mất một người hy-sinh mà đất nước vẫn được thống-nhất.”

            Ḥa-Thượng Thích Quảng Độ nhận-định về những sai-lầm và tội-lỗi của đảng CSVN đối với dân-tộc Việt-Nam: "Sau chiến-tranh thế-giới lần thứ hai, hầu hết các nước thuộc-địa ở Á Châu đều được độc-lập và đa-số chẳng theo phe nào, cho nên dân các nước ấy được sống trong ḥa-b́nh để xây-dựng đất nước và củng-cố nền độc-lập c̣n non trẻ của họ, chỉ có nước Việt-Nam là khốn khổ v́ chiến-tranh tàn-phá suốt hai mươi chín năm trời (1946-1975) là bởi những người Cộng-sản Việt-Nam đă đưa vận-mệnh của nước Việt-Nam ràng buộc vào sự sống c̣n và quyền-lợi của phe CS quốc tế. Giá như những người Việt-Nam thời ấy không là cộng-sản quốc-tế mà v́ dân-tộc thật-sự, như những Nehru của Ấn-Độ, Sukarno của Nam-Dương hay Nasser của Ai Cập v.v.. th́ dân-tộc Việt-Nam đă có thể tránh được hai mươi chín năm chiến-tranh ư-thức-hệ Quốc Cộng tương-tàn do các thế-lực ngoại-bang chi-phối."[14]

 

Việc Điền-khuyết Lịch-Sử

            Cộng-Sản đă kiểm-soát được toàn-thể Việt-Nam vào 1975, sau 30 năm chiến-tranh. Kẻ thắng trận có cơ-hội để nói lớn, tuy vậy không phải tất cả những ǵ kẻ thắng nói ra đều đúng với sự thật. Tập lược-sử này có chút tham-vọng ghi chép lại một số sự thật lịch-sử mà người dân Việt chúng ta cần được đọc và biết về những biến-chuyển của HQVNCH. Tổ-chức này bao gồm những người vừa mang nặng truyền-thống hàng-hải của tiền-nhân, vừa quyết-tâm bảo-vệ quyền tự-do của con người mang thân ḿnh bảo-vệ xứ sở chống độc-tài Cộng-Sản.

            30 tháng 4 năm 1975, mảnh đất Tự-do cuối cùng ở Miền Nam bị Cộng-Sản chiếm nốt. Thành-bại lẽ thường, nhiều người lính mất biển mất nước mất tàu, đành di-tản ly-hương để giữ lấy cuộc sống tự-do, khỏi làm kiếp tù-nhân cho Cộng-Sản bạo-tàn.

            Việc điền-khuyết Lịch-sử là một việc làm lớn lao, cuốn sử-liệu này xin khiêm-nhường đóng góp một phần nhỏ bé tài-liệu về Tổ-chức của Hải-Quân VNCH. Đi theo chiều-hướng biên-niên, cuốn sách lược-duyệt các biến-chuyển quân-chủng theo sóng triều chiến-trận, cùng thành-quả của nó lên xuống với thời-gian, từ năm 1952 đến năm 1975.

            Hiện-diện trên một khúc quanh của lịch-sử, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa cho dù đă mất, nhưng đương-nhiên đă đóng trọn vẹn một vai tṛ. Đó là v́ trách-vụ, mà người lính biển không thể nh́n thấy cái sợi dây truyền-thống hàng-hải của Ông Cha bị đứt đoạn mà không t́nh-nguyện đem thân làm cái gạch nối cho thế-hệ mai sau.

            Nh́n về những thành-quả 23 năm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa để t́m hiểu, chúng tôi xin đề-nghị tạm chia khoảng thời-gian đó thành 4 giai-đoạn như sau:

- Giai-đoạn h́nh-thành (1952-1957) và những khó-khăn khi dựng lại cờ Tổ-Quốc

- Giai-đoạn phát-triển (1957-1967) cho dù thiếu-thốn phương-tiện.

- Giai-đoạn bành-trướng (1967-1972) bộc-phát theo nhu-cầu chiến-trường.

- Giai-đoạn trưởng-thành (1972-1975) hoàn-thiện về tổ-chức và đột-ngột bị khai-tử khi Cộng-Sản Bắc-Việt chiếm miền Nam.

 

 

 

 

 

Huy-hiệu Hải-Quân Việt-Nam trên vành đai mũ Đoàn-Viên và trên ngực các vận-động-viên thể-dục thể-thao HQVN.

 Huy-hiệu (phía dưới) thường để trên bàn làm việc

 

 

 

 

Môi-trường Hải-Quân và Hàng-Hải Thương-thuyền giúp thanh-niên nhiều dịp viễn-du, học hỏi thế-giới bên ngoài


 

Chương 2

 

Giai-Đoạn H́nh-Thành

(1952-1957)

 

Sự Thành-lập Hải-Quân Việt-Nam

            Nhu-cầu cuộc chiến Quốc-Cộng đưa đến sự thành-lập Hải-Quân Việt-Nam. Sau nhiều đ́nh-hoăn, Hải-Quân Việt-Nam được khai-sinh ngày 6-3-1952 bởi dụ số 2.[15]

            Cũng như Không-Quân chỉ-huy bởi Ban Không-Quân, Hải-Quân được chỉ-huy đầu-tiên bởi Ban Hải-Quân (Section Marine), sau đổi thành Pḥng Hải-Quân (Département Marine) thuộc Bộ Tổng Tham-Mưu Quân-Đội Quốc-Gia Việt-Nam (Bộ TTM/QĐQGVN).

            Hải-Quân Việt-Nam không những đă sinh sau, mà c̣n lớn chậm hơn so với Lục-Quân và cả Không-Quân nữa.[16] Trong cái rủi cũng có cái may. Hải-Quân Việt-Nam sinh-trưởng vào đúng giai-đoạn tinh-thần dân-tộc tự-quyết trên toàn thế-giới nói chung và tại Việt-Nam nói riêng, đang dâng cao. Trong khi đó, bộ mặt thật phi dân-tộc của đảng Cộng-Sản Hồ-Chí-Minh đă hiện nguyên-h́nh[17]. Khi nhập-ngũ, các người lính thủy hơn ai hết là những thanh-niên có lập-trường quốc-gia vững-chắc, trọng Danh-dự, quyết-tâm bảo-vệ Tổ-Quốc Đại-Dương.

            Có nhiều lư-lẽ mà nguyên-nhân chính là v́ người Pháp không thực-tâm muốn cho Quốc-gia-Việt-Nam có một Hải-Quân riêng rẽ. Hai diễn-biến đươc ghi-nhận như sau:

- Nghị-định thành-lập Hải-Quân Việt-Nam đă bị hoăn lại nhiều lần trước khi được chính-thức ban-hành.

- Khi đă bắt buộc phải cho Hải-Quân Việt-Nam ra đời, người Pháp c̣n cản-trở sự lớn mạnh của tổ-chức này.

 

Sơ-đồ Hệ-thống Tổ-chức Quốc-pḥng Quốc-gia Việt-Nam năm 1952.

 

 Trong Sơ-đồ Tổ-chức của Bộ TTM/QĐQGVN, Hải-Quân Việt-Nam chỉ là một Ban Hải-Quân nhỏ bé trực-thuộc TTMT.

 

Đáng lẽ hai loại Dương-Vận-Hạm và Khu-Trục Hộ-Tống-Hạm[18] theo chương-tŕnh đă được chuyển-giao ngay từ 1955, nhưng người Pháp cố ư lờ đi. Trong bảng đề-nghị vào tháng 4 năm 1951[19], Tư-lệnh Hải-Quân Pháp tại Viễn-Đông[20], Phó Đô-Đốc Paul-Ange-Philippe Ortoli, người ta c̣n thấy có cả việc thành-lập một Phân-Đoàn Thủy-phi-cơ cho Hải-Quân Việt-Nam vào năm 1955. Những sự việc dự-trù này cho đến khi quân-đội Pháp rút lui hết đă không bao giờ xảy ra .

- Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp rất có tư-cách nhưng một số nhỏ nhân-viên cấp dưới có những ư-nghĩ không tốt, đă phá-hoại các trang-cụ trước khi trao cho Việt-Nam.

 

- Trong nghi-lễ chính-thức, tuy Chiến-hạm được chuyển-giao, nhưng Hạm-Trưởng vẫn là Sĩ-Quan người Pháp và Quốc-kỳ cũng vẫn là Quốc-kỳ Pháp. Tranh-chấp có liên-hệ tới danh-dự quốc-gia như vậy xảy ra khá lâu và chỉ chấm-dứt hẳn vào năm 1956.

- Diễn-tiến việc thành-lập và phát-triển HQVN chịu ảnh-hưởng chính-trị. Mỗi khi có sự bất-đồng chính-kiến giữa hai chính-phủ Pháp và Việt, diễn-tiến bị chậm lại. Đến khi Việt-Nam nắm được hoàn-toàn chủ-quyền th́ Hải-Quân Pháp ngưng ngay việc chuyển-giao chiến-cụ.

 

Khó-khăn về Nhân-sự lúc ban đầu.

            Ngoài chính-sách của người Pháp, những khó-khăn về nhân-sự Việt-Nam cũng đáng kể là nguyên-do đă gây trở-ngại cho Hải-Quân lúc sơ-khai.

            Nếu không kể Hải-Quân thời Hùng-Vương[21] / Đông-Sơn và Hải-Quân nhà Thục thời Cổ-Loa-Thành[22] , xuất-hiện hàng thiên-niên-kỷ trước Công-nguyên, th́ riêng Hải-Quân nước ta thời-kỳ tự-chủ kể từ khi Ngô-Vương-Quyền dựng nước, cũng đă tồn-tại xuưt-xoát một ngàn năm. Tuy vậy v́ họa thực-dân Pháp kéo dài gần trăm năm, lực-lượng này bị tan-ră và gián-đoạn. Vào đầu thập-niên 1950 khi gặp được thời-cơ tốt đẹp, Hải-Quân Việt-Nam được tái-sinh. Tuy vậy không thể trong khoảnh-khắc, Quốc-gia ta có đầy đủ ngay số lượng cán-bộ và đoàn-viên để điều-hành tàu thuyền chiến-đấu.[23]

            - 1950 - Một số nhỏ thanh-niên Việt-Nam được tuyển-mộ và gởi sang Pháp, học ngắn hạn tại trường Sĩ-Quan Hải-Quân Brest. Nhưng không may vào năm đó, thời-tiết của miền Bắc nước Pháp đột-nhiên trở nên giá lạnh khác thường, khoá-sinh Việt-Nam không đủ sức để chịu-đựng khổ nhọc khi huấn-luyện ngoài khơi. Sau cùng tất cả đành bỏ dở khoá học và không có Sinh-Viên Sĩ-Quan (SVSQ) nào tốt-nghiệp.[24] 

 

 

 Trống Đồng ghi khắc H́nh-ảnh Thủy-quân thời Hùng-Vương. Thuyền thời đó đă được trang-bị bành lái và cây xiếm.

 

            - 1951 - Dự-án về một Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Việt-Nam được khởi-xướng. Cũng trong năm này, có chương-tŕnh dự-trù thành-lập hai đơn-vị chiến-đấu, nhưng kết-quả không có đơn-vị Hải-Quân nào thực-sự thành-h́nh.

            - Cùng năm 1951, tiếp theo đề-nghị Ortoli đă nói ở trên, Bộ-Trưởng Hải-Quân Pháp lại hoạch-định thêm một chương-tŕnh c̣n rộng răi hơn nữa để trang-bị Chiến-hạm cho Việt-Nam. Bộ này dự-trù:

- chuyển-giao 1 Hộ-Tống-Hạm loại Chamois class, 647 tấn năm 1952.

- kiến-trúc thêm hai Khu-trục Hộ-Tống-Hạm mới, loại Le Corse class, 1290 tấn và 4 Trục-Lôi-Hạm loại Sirius class 365 tấn cho Việt-Nam tiếp theo sau đó.

            Phó Đô-đốc Ortoli nhân đà "rộng răi" của Bộ-Trưởng Hải-Quân, xin thêm cho Việt-Nam ngân-khoản xây cất cơ-sở huấn-luyện Đoàn-viên và huấn-luyện Sĩ-Quan. Ông đề-cập luôn cả việc kiến-trúc chiến-hạm ngay tại Việt-Nam.[25]

            Năm 1950, Thống-tướng De Lattre de Tassigny nhận quyền chỉ-huy Quân-Đội Viễn-chinh kiêm Cao-Ủy Pháp tại Đông-Dương. De Lattre đă sắp đặt lại bộ máy chiến-tranh, không để cho Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân cũng như Không-Quân được đứng biệt-lập như trước và phải tập-trung vào quyền chỉ-huy-trực-tiếp của Ông.[26]

            Khi tập-trung quyền-hành lại một mối như vậy, De Lattre cũng không tán-thành một tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam đứng riêng rẽ với Hải-Quân Pháp. Sau này đến lượt chính Phó Đô-đốc Ortoli cũng ngần-ngại thi-hành chính cái đề-nghị trước (đă được chấp-thuận) của ḿnh. Lư-do là Hải-Quân Pháp bắt đầu gặp trở-ngại việc tuyển-mộ người cho Hải-Quân của họ. Nếu như Hải-Quân Việt-Nam thành-lập và bành-trướng, Ortoli sẽ thiếu hụt quân-số.[27]

 

Cấp bậc Hải-Quân Pháp trên tay áo

               

                

              

 

Cấp bậc Hải-Quân Pháp từ Thủy-Thủ đến Đô-Đốc, mang trên tay áo của quân-phục mùa đông

 

            V́ những biến-chuyển như thế, từ khi Dụ số 1 ra đời qua suốt hai năm 1950 và 1951, chương-tŕnh không tiến-triển. Đến tháng 11-1951, công-cuộc xây-cất Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang mới lại bắt đầu.

 

 Quang-cảnh một buổi lễ trên HKMH Arromaches, có treo quốc-kỳ Việt-Nam.

 

Nhân-viên và Trang-bị lúc sơ-khởi.

            Năm 1952, 350 thanh-niên Việt-Nam được Hải-Quân tuyển-mộ. Phần lớn khóa-sinh được thụ-huấn tại Việt-Nam, một số ít được dự-trù gởi sang thụ-huấn tại trường Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp tại Brest. Có năm mươi người trở thành Hạ-Sĩ-Quan. Đây thực-sự là những thành-phần thuần-túy đầu-tiên[28] của Hải-Quân Việt-Nam.

            Các khóa huấn-luyện trên bờ đầu-tiên tại Nha-Trang như dự-trù, được mở từ tháng 7-1952.

 

Bức h́nh các Học-Viên VN chụp ngày 1-7-1952 tại TTHL/HQ Nha-Trang.

                                                                                                       Trước đó, Khóa 1 Sĩ-Quan Hải-Quân đă được huấn-luyện trên biển. Ngày 1 tháng 10 năm 1952, khóa 1 măn-khóa[29] với hầu hết là các Sĩ-Quan Hàng-Hải Thương-thuyền.[30]. Có 6 Sĩ-Quan ngành chỉ-huy (các Ông Lê-Quang-Mỹ, Trần-Văn-Chơn, Lâm-Nguơn-Tánh, Chung-Tấn-Cang, Trần-Văn-Phấn, Hồ-Tấn-Quyền) và 3 Sĩ-Quan ngành cơ-khí.[31] (các Ông Đoàn-Ngọc-Bích, Nguyễn-Văn-Lịch, Lương-Thanh-Tùng). Trừ HQ Thiếu-Úy Lê-Quang-Mỹ, các Sĩ-Quan tốt-nghiệp Chuẩn-Úy. Trước khi về trường, Khóa 1 đă được huấn-luyện khoảng 6 tháng trên các Chiến-hạm Pháp như Savorgnan de Brazza, Dumont d'Urville và Arromanches[32]. 6 tháng sau khi tốt-nghiệp, các Sĩ-Quan Chuẩn-Úy này thăng-cấp Thiếu-Úy.[33]

            Ngày 12 tháng 7 năm 1952, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang bắt đầu Khóa 1 Thủy-thủ chuyên-nghiệp gồm 150 khóa-sinh[34] và sau đó 25 khóa-sinh ưu-tú được lựa chọn để theo học Khóa 1 Hạ-Sĩ-Quan.

 

 

H́nh-ảnh lưỡng-long và Quốc-kỳ 3 sọc vàng thường thấy trong những mẫu biểu-tượng truyền-thống lịch-sử của HQVN thời-kỳ thành-lập.

 

            Theo tập-tục lâu đời của Hải-Quân Pháp, trong nhiều năm khởi đầu của HQVN, Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Việt-Nam cũng ngủ trên vơng. Ban ngày, các vơng được xếp lại nên pḥng ngủ dưới chiến-hạm và trên quân-trường rất quang-đăng.

 

Tranh Hí-Họa: Tàu ch́m, mang vơng đi theo vẫn thảnh-thơi!

 

Diễn-tiến tại Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha Trang

            Khoảng tháng 10 năm 1952, việc xây cất cơ-sở đă tạm xong, trường đủ chỗ để nhận thêm khóa-sinh.

            Ngày 1 tháng 11 năm 1952, Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang khai-giảng Khóa 2 Sĩ-Quan Hải-Quân, gồm 12 Sinh-Viên Sĩ-Quan ngành Chỉ-huy và 4 Sinh-Viên Sĩ-Quan ngành Cơ-khí. Khóa này măn-khóa vào tháng 5 năm 1953. Các Ông Đinh-Mạnh-Hùng, Nghiêm-Văn-Phú, Nguyễn-Văn-Kinh, Vơ-Văn-Chơn, Nguyễn-Hữu-Tiễng, Đỗ-Quư-Hợp, Nguyễn-Văn-Thu, Ngô-Khắc-Luân, Khương-Hữu-Bá, Trương-Ngọc-Lực[35], Phùng-Nhật-Tân, Nguyễn-Văn-Trụ, ... Lung...[36] tốt-nghiệp khóa này.[37]

 

 Các SVSQ Hồ-Tấn-Quyền, Nguyễn-Văn-Lịch và 3 Học-Viên Thủy-Thủ.

 

            Khóa 3 Sĩ-Quan Hải-Quân nhập-học tháng 7 năm 1953 và măn-khóa vào tháng 1 năm 1954. Các Ông Nguyễn-Văn-Thông, Diệp-Quang-Thủy, Vũ-Đ́nh-Đào, Nguyễn-Hữu-Chí, Nguyễn-Thanh-Châu, Phan-Văn-Cổn, Bùi-Kim-Nguyệt, Trần-Phước-Dũ... thuộc khóa này.

            Kể từ khóa 4 về sau, thành-phần các ứng-tuyển-viên Hàng-hải Thương-Thuyền giảm bớt. Hầu hết Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân Nha-Trang là dân-chính có người từng làm giáo-sư, sinh-viên đại-học. Các Ông Nguyễn-Văn-Ánh, Hồ-Văn Kỳ-Thoại, Nguyễn-Xuân-Sơn, Nguyễn-Bá-Trang, Đặng-Trần-Du... thuộc khóa này.

            Khóa 5 Sĩ-Quan Hải-Quân nhập-học tháng 07 năm 1954, măn-khóa tháng 05 năm 1955. Các Ông: Nguyễn-Viết-Tân, Hoàng-Cơ-Minh, Hà-Văn-Ngạc, Nguyễn-Văn-May... thuộc khóa này.

            Về phần Huấn-luyện Hạ-Sĩ-Quan, lúc đầu Hải-Quân không mở thẳng những cuộc thi-tuyển từ ứng-viên dân-chính. Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang được ủy-thác quyền chọn lựa các thủy-thủ học-viên xuất-sắc nhất để đào-tạo thành các Hạ-Sĩ-Quan chuyên-nghiệp.[38]

Cho tới năm 1953, Việt-Nam vẫn chưa có tàu. Các tân Sĩ-Quan và Thủy-thủ Việt-Nam tập-sự trên các Chiến-hạm của Pháp.

 

Các Khóa học tại Pháp

Vào giữa năm 1952, Hải-Quân thi tuyển một số Sinh-Viên Sĩ-Quan du-học tại Pháp.

            Có bốn khóa Sinh-Viên Sĩ-Quan học Trường Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp tại Brest (1952, 1953, 1954, 1955). Chương-tŕnh dự-trù 3 năm gồm có 2 năm học lư-thuyết ở trường, một năm thực-tập trên Tuần-Dương-Hạm Jeanne d'Arc cho 2 khóa đầu.[39]36 Từ khóa 3, chương-tŕnh này thay đổi. Sau khi Hiệp-định Genève chia cắt đất nước vào năm 1954, vấn-đề ngoại-giao Việt-Pháp gặp khó-khăn. Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân Brest bị gửi về Việt-Nam vào 1956 sau hai năm học. Khóa thứ 4 cũng vậy, Sinh-viên chỉ học lư-thuyết rồi hồi-hương. Hải-Quân Pháp không cho họ thực-tập ngoài khơi năm sau cùng.

 

   

Không-ảnh Hải-Quân Học-Hiệu Brest củaPháp

H́nh nhỏ: Hai Huy-Hiệu của trường.

H́nh dưới:Bảo- tàng-viện Brest .

 

            Khóa 1 Brest có các Ông Đặng-Cao-Thăng, Nguyễn-Vân, Nguyễn-Đức-Vân, Vương-Hữu-Thiều ngành chỉ-huy và Ông Nguyễn-Gia-Định ngành cơ-khí.[40]  Khóa 2 có các Ông Dư-Trí-Hùng, Nguyễn-Ngọc-Quỳnh, Vũ-Xuân-An, Hồ-Ngọc-Ngà, Trịnh-Xuân-Phong, Bùi-Tiến-Rũng, Ủ-Văn-Đức, Bùi-Văn-Lễ... Khóa 3 có các Ông Phạm-Văn-Sanh, Bùi-Hữu-Thư, Lê-Phụng, Nguyễn-Quang-Dật, Đỗ-Kiểm, Trịnh-Quang-Xuân, Vũ-Nhân[41], Đỗ-Ngọc-Oánh, Phạm-Cừ, Đặng-Đ́nh-Hiệp. Khóa 4 có các Ông Nguyễn-Địch-Hùng, Lê-Triệu-Đẩu, Vơ-Duy-Ninh, Nguyễn-Tiến-Ích, Trần-Văn-Sơn...

            Ở Pháp c̣n có các khóa Hành-chánh Tài-chánh (Commissaire) ở Toulon. Các khóa này học một năm và một năm thực-tập tại các Dépôt của Pháp. Khóa đầu có các Ông Đỗ-Đăng-Công và Trần-Văn-Tất. Khóa hai có các Ông Phạm-Trung-Giám. Tốt-nghiệp khóa Hành-chánh Tài-chánh ở Cherbourg năm 1956 có Ông Trần-Văn-Biểu.

            Du-học lâu năm hơn tại Pháp có một số Y-sĩ Hải-Quân Việt-Nam theo học và tốt-nghiệp trường Quân-Y Hải-Quân và Thuộc-địa (École de Santé Navale et Coloniale) ở Bordeaux vào cuối năm 1956.[42] Đó là các Ông Phạm-Vận, Dương-Hồng-Mô, Trần-Nguơn-Phiêu, Đặng-Tất-Khiêm, Nguyễn-Văn-Nghiă và Nguyễn-Phúc-Quế.[43]

 

Hải-Quân Pháp và Hải-Đoàn Xung-phong.

            Trong nhiều thế-kỷ dùng tàu chiến đi xâm-lăng, Hải-Quân Pháp đă sử-dụng giang-đĩnh trên nhiều chiến-trường tại Á-Châu và Phi-Châu. Quân-đội viễn-chinh cần có các chiến-đĩnh tầm nước nông cạn để đi b́nh-định và giữ an-ninh sông rạch những vùng ngập nước.

Tại thuộc-địa, giới-chức nắm quyền quân-sự thường thường là các Đô-Đốc, đôi khi nắm luôn cả chức Thống-Đốc hay Toàn-Quyền. Hải-Quân luôn luôn có ưu-thế quyền-lực hơn Lục-Quân[44].

Sau Thế-chiến 2, t́nh-h́nh chính-trị và quân-sự ở Việt-Nam biến đổi nhanh chóng. Vào cuối thập-niên 1940 sang đầu thập-niên 1950, các trận địa-chiến ác-liệt lan tràn khắp nơi. Quyền-lực của Hải-Quân Pháp suy-giảm hẳn so-sánh với Lục-Quân của họ.

 

Quyền-lực của Hải-Quân Pháp tại Việt-nam bị suy-giảm khi Đô-Đốc Georges Thierry d’Argenlieu bị thay-thế bởi Cao-Ủy Emile Bollaert và Tướng Leclerc ngày 5-3-1947 (h́nh trên).

 

Khi đoàn quân của Pháp theo chân quân Anh đến giải giới quân-đội Nhật Bản tại miền Nam Việt-Nam năm 1945, tướng Leclerc Tư-Lệnh quân viễn-chinh Pháp đă thi-hành kế-hoạch chiếm đóng các tỉnh lỵ quan-trọng trên sông Cửu Long, bắt đầu từ Mỹ Tho, rồi Vĩnh Long và Cần Thơ. V́ đường xá và cầu cống dẫn đến các địa-điểm trên bị phá-hủy, sự di chuyển của lục-quân trên bộ rất khó-khăn; Pháp đă sử-dụng Lữ-Đoàn Hải-Quân Bộ-Chiến (Fusilier Marins) . Phương-tiện di-chuyển của đoàn quân này là các chiến-đĩnh loại đổ-bộ do Hoa-Kỳ hay Anh-Quốc trang-bị (dự-trù sử-dụng trong các cuộc hành-quân đổ-bộ chống Nhật tại Đông Dương).[45]

 Hải-Quân Bộ-Chiến -Fusiliers Marins- là một binh-chủng lâu đời của HQ Pháp- H́nh trên là một nhóm Fusiliers Marins trong Thế-Chiến 2 (1914) - Photo collection Norbert Desgouttes

 

Lữ-Đoàn Hải-Quân Bộ-Chiến này là tiền-thân của các Hải-Đoàn Xung-phong (DINASSAUT - Division Navale Assaut, gọi tắt là Dina). Ngoài LCVP, LCM, LCT, LSSL, LSIL mà người ta thường thấy; c̣n có những loại chiến-đĩnh xa lạ như EA, LCA, MFV, cả Xà-lan vơ-trang. Kỳ-lạ hơn nữa, Pháp đă dùng những ghe buôn, thuyền đánh cá kiểu Á-đông rồi gắn những tấm giáp sắt, thiết-trí các loại súng đại-bác và liên-thanh để tác-chiến.

 

Có cả Pháo-hạm của Anh LCG (Landing Craft, Gun) trong Dina.

 

Ngoài LCVP, LCM, LCT, LSSL, LSIL...; Hải-Quân Pháp c̣n sử-dụng cả Xà Lan Bọc Sắt Armoured Barge, Tàu Cá MFV (Motor Fishing Vessel), Thuyền Vơ-trang (Armed Junk),

 

Sau khi Hải-Quân Pháp thành-lập được Lữ-Đoàn Hải-Quân Bộ-Chiến[46], Hải-Quân Trung-Tá François Jaubert[47] đă chiếm đóng các tỉnh vùng châu-thổ Cửu-Long-Giang một cách nhanh chóng[48]. Khởi đầu với phương-tiện phức-tạp như vậy, những đoàn quân thủy-bộ của Quân-đội Viễn-chinh Pháp cải-tiến dần dần để tham-dự những trận đụng-độ trong sông ng̣i ác-liệt cả trong Nam lẫn ngoài Bắc sau này. Theo Robert McClintock, danh-từ Dinassaut xuất-hiện từ năm 1947 tại Việt-Nam.[49]

Khi phải chấp-nhận sự h́nh-thành Hải-Quân Việt-Nam, người Pháp rút kinh-nghiệm chiến-đấu của họ, đă lấy việc thành-lập Giang-Lực cho Việt-Nam làm quan-trọng nhất. Theo nhận-xét của Đại-Tá Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ Victor Croizat[50] và Sử-gia Charles W. Koburger[51], v́ lư-do đó, người Pháp không mấy quan-tâm tới việc trang-bị các Chiến-hạm lớn cho Hải-Quân Việt-Nam.

 

T́nh-trạng Hải-Quân Việt-Nam trong hai năm 1953-1954

            Sau những khó-khăn như đă kể trên, cuối cùng Hải-Quân Việt-Nam cũng được kể là chính-thức ra đời vào ngày 10 tháng 4 năm 1953. Chỉ có 5 Giang-đĩnh trang-bị Đại-liên 50 và Đại-bác 20 ly, trên lư-thuyết qua tay Việt-Nam tại Cần-Thơ. Đó là một Hải-Đoàn Xung-phong (HDXP) rút gọn[52]. Thực-tế vẫn c̣n người Pháp trên tàu, Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan Pháp c̣n chỉ-huy, nhưng chiến-đĩnh mang cờ Việt-Nam. Hải-Đoàn này trang-bị một Soái-Đĩnh (LCM Commandement), hai Quân-Vận-Đĩnh (LCM - Landing Craft Mechanized) và hai Tiểu-Vận-Đĩnh (LCVP - Landing Craft Vehicle and Personnel). Qua mùa hè, một đoàn như vậy thành-h́nh tại Vĩnh-Long.

            Tính cho đến cuối năm 1953, lực-lượng của Hải-Quân Việt-Nam chỉ gồm có hai Hải-Đoàn Xung-phong Trừ (-) với không quá mười chiếc Tiểu-đĩnh.

            Tuy tinh-thần phấn-khởi nhưng Hải-Quân Việt-Nam c̣n phải vượt nhiều chặng đường nữa trước khi trưởng-thành. Hải-Quân bị ép trong tổ-chức hỗn-hợp giữa Pháp và Việt, lại bị kẹp giữa một loại quân-lực mà uy-thế lấn-áp bởi Lục-Quân. Bộ Tham-mưu Liên-Quân này lại toàn-quyền chi-phí mọi ngân-khoản, điều-khiển mọi hoạt-động.

 

Một Soái-Đĩnh (LCM Commandement) đang giang-hành quan-sát.

 

Về quân-số, Hải-Quân lúc đó rất nhỏ nhoi, chỉ chiếm vào khoảng 1/2 của một phần trăm quân-lực. Thêm nữa, thượng-cấp Việt và thượng-cấp Pháp lại muốn hướng Hải-Quân Việt-Nam đi theo các kế-hoạch khác nhau. T́nh-trạng Hải-Quân lúc đó không những đă yếu ớt mà c̣n bị xé-lẻ ra nữa![53]

           

 

H́nh HQ Chuẩn úy, rồi HQ Trung-Úy Trần-Văn-Chơn

Vào đầu năm 1954, thêm một Hải-Đoàn Xung-phong thứ ba được thành-lập, dự-chiến tại miền Trung-châu Bắc-Việt.[54]

 

 

Trong khi quân-đội Liên-hiệp Pháp gặp khó-khăn ngoài chiến-trường, Tuần-Dương-Hạm Rochester đến thăm Sài-G̣n tháng 2-1954, mang theo thông-điệp Hoa-Kỳ sẽ trợ-giúp Việt-Nam chống Cộng-Sản

 

Kéo cờ Tổ-Quốc

            Sau khi đơn-vị Hải-Quân thứ nh́ tại Vĩnh-Long ra hoạt-động vào tháng 6, sự tranh-luận về Quốc-kỳ trên các chiến-hạm, chiến-đĩnh bộc-phát giữa hai chính-phủ Việt, Pháp.

            Như đă nói, trên các chiến-đĩnh tại Cần-Thơ và Vĩnh-Long tuy mang Quốc-kỳ Việt-Nam nhưng một thành-phần Thủy-Thủ-Đoàn vẫn c̣n người Pháp. Một số người Pháp không bằng ḷng.

Trong khi đó vấn-đề quốc-kỳ trên kỳ-đài Chiến-hạm tạo những xúc-động rất lớn lao. Tại Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Việt-Nam Nha Trang, Giang-Pháo-Hạm LSIL 9033 (Landing Ship, Infantry, Large) được được dùng làm Huấn-Luyện-Hạm. V́ Hạm-Trưởng là Sĩ-Quan HQ Pháp nên Chiến-hạm vẫn tiếp-tục mang cờ Pháp trên kỳ-đài. Lần này, phía Việt-Nam bực ḿnh với lư-do trên giấy tờ, chiếc Giang-Pháo-Hạm đó thuộc TTHL/HQ Việt-Nam, huấn-luyện SVSQ và Đoàn-Viên Việt-Nam; vậy phải mang cờ Việt-Nam.

 

LSIL

Hai chiếc Giang-Pháo-Hạm LSIL của Pháp đang chạy ngang qua bến Bạch-Đằng.

 

            Hải-Quân Việt-Nam nhất-quyết đ̣i phải được kéo quốc-kỳ màu vàng ba sọc đỏ trên kỳ-đài của tất cả các chiến-hạm, chiến-đĩnh sau khi chuyển-giao. Người Pháp, v́ c̣n hiện-diện và thường nắm luôn cả quyền chỉ-huy đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam, nên đă có nhiều đề-nghị do họ đưa ra như: treo một cờ Pháp, treo hai cờ Pháp-Việt song-song, hay treo một cờ Liên-Hiệp-Pháp v.v...[55]

            Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1954, vấn-đề Quốc-kỳ được giải-quyết một cách tạm-thời.[56] Pháp chuyển-giao tiếp cho Việt-Nam ba Trục-Lôi-Hạm (YMS - Yard Minesweeper): HQ. 111 Hàm Tử, HQ. 112 Chương Dương, HQ. 113 Bạch Đằng tại Sài-G̣n.[57] Ba chiến-hạm này đă mang quốc-kỳ Việt-Nam ở sau lái ngay từ sáng hôm đó, trước cả khi nghi-lễ được cử-hành. Danh-hiệu chiến-hạm là địa-danh những trận thủy-chiến mà quân thủy ta đă tiêu-diệt chủ-lực-quân Mông-Cổ vào thế-kỷ thứ 13.[58]

 

Quan-khách Việt-Pháp đến dự lễ chuyển-giao ba Trục-Lôi-Hạm tại Sài-G̣n. Lưu-ư Quốc-kỳ Việt-nam đă được kéo lên sau lái các chiến-hạm này, trước buổi lễ.

 

 

Bức h́nh lịch-sử của HQVN: Lần đầu tiên, quốc-kỳ Việt-Nam phất-phới bay trên chiến-hạm. Trang báo trên đăng trong “Documents Việt-Nam No 70”, bưu-báo chính thừc của Phủ Cao-Ủy Việt-Nam tại Pháp ấn-hành ngày 1-3-1954.

 

 

Theo các thỏa-ước kư-kết giữa Việt Pháp: chủ-lực Hải-Quân Việt-Nam gồm có 1 Khu-Trục-Hạm 305 feet, 1 Thông-Báo-Hạm, 257 feet, 7 Hộ-Tống-Hạm PC, 2 Hải-Vận-Hạm LSM, 3 Trục-Lôi-Hạm YMS. Tài-liệu trích-dẫn từ Jane's Fighting Ships, năm 1955 (xuất-bản vào cuối năm 1954).

 

            Theo Charles W. Koburger, lời hứa gia-tăng khả-năng chiến-đấu cho Hải-Quân Việt-Nam không được người Pháp thi-hành. Cho đến khi chấm-dứt chiến-tranh vào tháng 7 năm 1954, Sĩ-Quan Việt-Nam mới chỉ điều-hành có một Giang-Vận-Hạm LCU[59], và chừng 30 tiểu-đĩnh thủy-bộ. Quan-trọng hơn, quyền chỉ-huy toàn-thể Hải-Quân vẫn c̣n trong tay Sĩ-Quan người Pháp.[60]

 

Tinh-thần Dân-tộc mạnh mẽ

            Ngày 11 tháng 2 năm 1954 là một ngày quan-trọng. Khi Thủ-Tướng Bửu-Lộc, tháp-tùng bởi Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng Phan-Huy-Quát của Việt-Nam và Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng Pleven của Pháp đến chủ-tọa cuộc lễ tại bờ sông Sài-G̣n th́ Quốc-Kỳ màu vàng ba sọc đỏ được kéo lên trên ba chiến-hạm M655 Aubépine, M656 Belladone và M657 Digitale. Số tàu và tên tàu sau đó được đổi sang HQ. 111 Hàm Tử, HQ. 112 Chương Dương và HQ. 113 Bạch Đằng. H́nh-ảnh này được tŕnh-bày làm bià cho tờ báo Documents Việt-Nam No.70 ngày 1er Mars 1954, phát-hành tại Paris.[61]            

Tuy c̣n non trẻ nhưng Hải-Quân Việt-Nam đă biểu-lộ một tinh-thần dân-tộc mạnh mẽ. Sĩ-Quan và Đoàn-Viên noi theo truyền-thống quân thủy của tiền-nhân. Tư-tưởng nhận Thánh-tổ Trần-Hưng-Đạo đă manh-nha ngay từ lúc đó. Điểm này đáng kể là khác-biệt với Hải-Quân Cộng-Sản Hà Nội.[62] V́ chịu ảnh-hưởng tai-hại của thuyết duy-vật, người Cộng-Sản thường hay bài-xích những niềm-tin truyền-thống dân-tộc. Tuy ngụy-trang dưới chiêu-bài truyền-thống quân thủy, nhưng Hải-Quân Nhân-Dân thực-sự chỉ là một sản-phẩm ngoại-lai và một công-cụ tay sai cho đảng-phái. Cuốn sách "Quân Thủy trong Lịch-Sử Chống Ngoại-Xâm" của Hà-Nội viết những câu khẳng-định như "sông, biển thuộc Xă-hội Chủ-nghĩa".

 

Tư-tưởng nhận Thánh-tổ Trần-Hưng-Đạo đă có ngay từ khi HQVN thành-lập.

 

Khi bàn về cái "truyền-thống" (mất gốc) đó, ba tác-giả Cộng-sản là Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, và Nguyễn-Mạnh-Hùng đă viết như sau: "... cách tốt nhất để giữ ǵn truyền-thống (Hải-Quân Nhân-Dân), làm cho nó luôn luôn có sức sống và ngày càng tươi tốt... Hải-Quân Nhân-Dân ta ngày nay ra đời trong những điều-kiện lịch-sử mới. Chúng ta có chủ-nghiă Mác - Lê-nin bách-chiến bách-thắng, có đường lối chiến-tranh nhân-dân đúng-đắn và sáng-tạo của Đảng (Cộng-Sản)... để bảo-vệ vùng biển yêu-quư của Tổ-Quốc Xă-hội Chủ-nghiă"[63].

Sống trong truyền-thống dân-tộc, những người Quốc-Gia chân-chính không thể nào hiểu được tại sao Hải-Quân Nhân-Dân với “điều-kiện lịch-sử mới” Mác - Lê-nin, với “đường lối” Xă-hội chủ-nghĩa và “nghiă-vụ” Cộng-Sản Quốc-tế Anh Em mà lại có cái truyền-thống như vậy!

 

 

 Cờ Ngũ Sắc Truyền-thống của dân-tộc

 

 

Quan-niệm H́nh-thành Thủy-Quân Lục-Chiến.

            Quan-niệm h́nh-thành Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam (TQLC) nói riêng, và cả Hải-Quân Việt-Nam nói chung, là những trường-hợp đặc-biệt không xảy ra tương-tự như trong các quân-đội khác. Đại-Tá Victor Croizat bàn về bối-cảnh phức-tạp này trong Nguyệt-San U. S. Naval Proceedings[64], nhan-đề "Vietnamese Naval Forces: Origin of the Species".

            Peter Brush kể lại trong một bài viết nhan-đề “The Vietnamese Marine Corps” như sau: Trong khi bàn-luận việc sử-dụng 57 Tiểu-Đoàn Khinh-Quân cho kế-hoạch phản-công, đại-diện hai chính-phủ Việt-Pháp đối-diện một vấn-đề: Trong khi hành-quân phối-hợp duyên-hà, duyên-hải; Lục-Quân hay Hải-Quân sẽ điều-động các đoàn giang-đĩnh?

Phó Đô-Đốc Philippe-Marie-Joseph-Raymond Auboyneau, Tư-lệnh FNEO đề-nghị thành-lập binh-chủng Thủy-Quân Lục-Chiến thuộc quân-chủng Hải-Quân để giải-quyết vấn-đề. Theo đề-nghị đó, TQLC được thành-lập và sẽ gồm hai thành-phần: Giang-Đoàn và quân Bộ-chiến.[65]

            Chuyện này chỉ tạm ổn v́ uy-tín cá-nhân của Auboyneau trong nghị-hội. Ngay trong giai-đoạn đó, chắc chắn các giới hữu-trách đă hiểu rằng một tổ-chức Hải-Quân theo giải-pháp này không ổn-thỏa. Lư-do là trên thực-tế, v́ chưa bao giờ được huấn-luyện về hảng-hải, TQLC chỉ là lực-lượng đổ-bộ và tác-chiến trên bờ, không thể nào kiểm-soát các Giang-Đoàn Xung-phong hay toàn-thể Giang-lực được.

 

Các đoàn Tuần-giang và Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-binh của Pháp.

            Những đoạn trên đây tường-tŕnh về những lực-lượng Hải-Quân chính-thức. Tuy nhiên, cần phải-kể đến một tổ-chức bán chính-quy là Giang-thuyền đă thành-lập từ đầu năm 1951. Tổ-chức phụ-lực (suppletif) này không thuộc Hải-Quân mà thuộc Vệ-binh Quốc-gia, hoạt-động bao trùm trên toàn-thể các vùng sông ng̣i Việt-Nam. Tổ-chức Giang-thuyền lúc đó gồm có hai Liên-Đoàn Tuần-giang biệt-lập Nam và Bắc-Việt, và một đoàn Tuần-giang Trung-Việt.[66]

            Liên-Đoàn Tuần-giang Nam-Việt thành-lập ngày 1-3-1951, đầu-tiên gồm có ba đoàn Tuần-giang, đến cuối năm tổ-chức thêm đoàn Tuần-giang thứ tư. Mỗi đoàn Tuần-giang gồm có ba Trung-đội, mỗi Trung-đội có hai tàu Vơ-đét, riêng đoàn Tuần-giang thứ tư có tới bốn Trung-đội. Nhưng vào giữa năm 1952, sau các sự thiệt-hại do những cuộc đụng độ tại rạch Ông Nghĩa và ở sông Thị Vải, đoàn thứ tư này trở lại tổ-chức-thông thường như các đoàn khác.

            Liên-Đoàn Tuần-giang Bắc-Việt cũng được thành-lập kể từ 1-3-1951 bằng quân-số của Bảo-Chính-Đoàn, lúc đầu có ba đoàn Tuần-giang. Sau đó v́ các đoàn này bị thiệt-hại và cũng v́ thiếu-phương-tiện giang-đĩnh nên Hải-Quân Pháp phải rút xuống c̣n hai đoàn. Đầu năm 1954, các đoàn c̣n lại tập-trung tất cả ở Nam-Định để tăng-cường cho mặt-trận vùng Nam châu-thổ sông Hồng.

            Đoàn Tuần-giang Trung-Việt măi đến ngày 1-9-1951 mới thành-lập. Tuy chỉ là một đoàn nhưng đoàn này đă được đặc-biệt tăng-cường thêm quân-số, cấp thêm nhiều phương-tiện hơn so với các đoàn Tuần-giang thành-lập lúc trước.

            Tới ngày 30-6-1954, các đoàn Tuần-giang bị giải-tán và cải-biến thành sáu Đại-đội Tuần-giang (cies fluviales). Sau ngày đ́nh-chiến, các Đại-đội Com-măng-đô Bắc-Việt và Lực-Lượng Tuần-Giang (force fluviale) chuyển vào Nam vĩ-tuyến 17, được lệnh phối-hợp cùng các Đại-đội Com măng đô Nam-Việt để thành-lập Lực-Lượng "Infanterie Marine" hay Hải-Quân Bộ-binh[67], thuộc BTL/HQ Pháp.

            Vào tháng 8 năm 1954, một Tiểu-Đoàn Commando thành-h́nh tại Nha-Trang. Đó là Tiểu-Đoàn Đổ-Bộ số 1 của Hải-Quân Pháp (Bataillon de Marche) mà người Mỹ thường gọi là 1st Landing Battalion. Tiểu-Đoàn-Trưởng là Đại-Úy Jean Louis Delayen[68].

            Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-binh này chính là tiền-thân của Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.[69]

 

Hai Huy-hiệu TQLCVN

 

Sự Thành-lập Thủy-Quân Lục-Chiến

            Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam được chính-thức thành-lập bởi Nghị-định số 991/ND ngày 13-10-1954 do Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm kư và ban-hành.[70] Nghị-Định này có tính-cách hồi-tố, v́ TQLC đă thành-lập từ ngày 1 tháng 10 năm 1954.

Cũng như Hải-Quân Việt-Nam lúc khởi đầu, TQLC mới chỉ có tên nhưng thực-sự chưa có đơn-vị nào trực-thuộc. Tất cả Lực-lượng "Infanterie Marine" đều c̣n trực-thuộc BTL/HQ Pháp.

Cho đến tháng 5 năm 1955, quyền chỉ-huy Tiểu-Đoàn tác-chiến TQLC đầu-tiên mới vào tay Sĩ-Quan Việt-Nam.

 

Tổ-Chức Sơ-khởi của TQLC.

T́nh-h́nh Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-binh cho đến đầu năm 1955[71] như sau:

- Ngoài Tiểu-Đoàn Đổ-Bộ số 1 của Delayan đồn-trú tại Nha-Trang, tất cả các đội Com-măng-đô và Tuần-giang đóng rải rác nhiều nơi, từ Huế xuống đến đồng-bằng Cửu-Long. Tổng-số quân-nhân lên tới 2,400 người với hầu hết cấp Chỉ-huy người Pháp.

- Thiếu-Tá Lê-Quang-Trọng được chỉ-định chỉ-huy đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam nhưng không có nhân-viên Bộ Chỉ-Huy và cũng không có cả tổ-chức thống-thuộc xác-định quyền-hạn. Thiếu-Tá Trọng bị coi như cô-lập với các đơn-vị Hải-Quân Bộ-Binh, mà đáng lẽ phải mang tên mới là Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.

- TQLC chưa đứng vững đă gặp ngay trở-ngại về cắt giảm quân-số. Sau ngày đ́nh-chiến 20-7-1954, quân-đội cần giải-giới nhiều đơn-vị. Cả HQVN - gồm luôn TQLC - chỉ được giữ một cấp-số 3,000 người. Số hiện-hữu 2,400 TQLC là một tỷ-lệ bất tương-xứng cho quân-chủng. Trong hoàn-cảnh phức-tạp của t́nh-thế đất nước và t́nh-trạng phân-tán của Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-Binh Pháp cũng như Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam lúc đó, cấp-số tổ-chức này được ấn-định lại là 1,137 Sĩ-Quan và Binh-Sĩ.

- Số-phận TQLC/VN tuy vậy, vẫn c̣n được các giới-chức quân-sự bàn-thảo nhiều lần nhưng không có tiến-triển ǵ sáng sủa. Sử-gia Mỹ Witlow viết rằng: “...nguyên-do là v́ binh-đoàn TQLC/VN không thực-sự hiện-hữu và chỉ có ở trên giấy tờ mà thôi”.

- Ngày 1-1-1955 các Đại-đội Tuần-giang số 1, 2, 3, 4, và 7 được chính-thức sáp-nhập vào "đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến" này, trực-thuộc Quân-chủng Hải-Quân.[72]

Rồi t́nh-thế cũng biến-chuyển tốt đẹp. Những cuộc hành-quân dẹp các Lực-Lượng Giáo-phái bắt đầu và sự hữu-hiệu của TQLC được chứng-minh tốt nhất là ngoài chiến-trường.

- Ngày 1-5-55, một số nhân-viên thuyên-chuyển tới để Thiếu-Tá Trọng thành-lập một Bộ Chỉ-Huy nhỏ tại Sài-G̣n. Sau đó ít ngày, Thủ-Tướng Diệm chỉ-định Đại-Úy Bùi Phó Chí thay-thế Đại-Úy Delayen[73]. Quyền chỉ-huy đầu-tiên của một Tiểu-Đoàn tác-chiến TQLC vào tay người Việt. Tiểu-Đoàn này mang danh Quái Điểu, chính là con Cọp Biển đầu-tiên của TQLC Việt-Nam.

            Đại-Úy Bùi Phó Chí không ở chức-vụ lâu. Trong thời-gian này, Thiếu-Tá Trọng đă thăng-cấp Trung-Tá. Để thay-thế Ông[74], Thiếu tá Phạm-Văn-Liễu nguyên là Tham-Mưu-Trưởng TQLC được bổ-nhiệm Chỉ-huy TQLC ngày 18-1.[75] Không lâu, vào tháng 10-1955, Thiếu-Tá Lê-Như-Hùng được chỉ-định thay-thế Thiếu-Tá Liễu. Ông Hùng giữ chức-vụ này tới 4 năm.

Cũng trong năm 1955, Tiểu-Đoàn 2 Trâu Điên ra đời tại Rạch Dưà, sau di-chuyển về Cam Ranh, tỉnh Khánh Ḥa. Một Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn được thành-lập để chỉ-huy hai Tiểu-Đoàn trên.

            Vào năm đầu chuyển-tiếp Pháp-Việt, lực-lượng này là quân bộ-chiến có trang-bị một số Thủy-Xa và Chiến-Đĩnh[76] cơ-hữu, phối-hợp hành-quân như một thứ Giang-Lực Thủy-bộ thuộc Hải-Quân.

 

 

Đại-Úy Lê-Nguyên-Khang (trái, sau này là Tư-Lệnh TQLC), đứng cạnh Thiếu-Tá Lê-Như-Hùng (GHT/TQLCVN) và một số Sĩ-quan du-học trường TQLC Quantico, Hoa-Kỳ.[77]

 

 

Hai TQLCVN đang xung-phong tiến chiếm mục-tiêu.

 

Tổ-chức Điều-hành chuyển-tiếp

            Kể từ 1951, trong khi Lục-Quân viễn-chinh Pháp thất-thế trên bộ phải rút lui, thu gọn khu-vực pḥng-thủ; Lực-Lượng Hải-Quân của họ vẫn hoạt-động hữu-hiệu. Tất cả những đ̣i hỏi của Lục-Quân xin yểm-trợ đều được Hải-Quân thoả-măn tối-đa. Tướng Navarre, trong nhiệm-kỳ từ tháng 5-1953 đến tháng 6-1954, đă rất hài-ḷng về sự hoạt-động của Hải-Quân vào lúc bấy giờ.[78] 

            Khi Hội-Nghị Genève về chiến-tranh Đông Dương sắp đến hồi kết-thúc, th́ Pháp bắt đầu chuyển-giao các đơn-vị nhỏ cho Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam chỉ-huy. Điển-h́nh là chuyển-giao một chiếc Giang-Vận-Hạm (Landing Craft Utility) cho Hải-Quân Việt-Nam, vị Thuyền-Trưởng Giang-Vận-Hạm (LCU) đầu-tiên là HQ Trung-Úy Hồ-Tấn-Quyền, Cơ-Khí-Trưởng là Trung-Úy CK Đoàn-Ngọc-Bích, xuôi ngược tham-dự hành-quân và chuyển-vận quân-dụng khắp sông rạch châu-thổ sông Cửu Long.[79]

 

Một chiếc Giang-Vận-Hạm

 

            Vào đầu năm 1955, các đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam (trừ LCU của Trung-Úy Quyền) vẫn c̣n do những Sĩ-Quan Pháp điều-khiển, nhưng các Giang-Vận-Hạm[80] bắt đầu được chuyển-giao thêm. Sau HQ. 534 của Trung-Úy Quyền, tới HQ. 533 do HQ Trung-Úy Chung-Tấn-Cang và HQ. 537 do HQ Trung-Úy Đỗ-Quư-Hợp chỉ-huy.

            Tới ngày 20-8-1955, vị Phụ-Tá Hải-Quân thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu (Bộ TTM) mới nắm quyền điều-khiển ngành Hải-Quân. Lần lần từ đó, quyền chỉ-huy Hải-Đoàn và Chiến-Hạm được chuyển-giao cho Sĩ-Quan Việt-Nam điều-khiển.

            Hải-Đoàn Xung-Phong đầu-tiên được giao cho Hải-Quân Việt-Nam chỉ-huy là Dina I tại Cần Thơ. Vị Chỉ-Huy-Trưởng đầu-tiên là HQ Đại-Úy Lê-Quang-Mỹ. Sau vài tháng, căn-cứ Hải-Quân Pháp ở Mỹ Tho được chuyển-giao cho Việt-Nam. Dina I cải-danh thành Hải-Đoàn Xung-Phong 21 di-chuyển về căn-cứ này. Địa-bàn hoạt-động là vùng Đồng Tháp Mười.[81]

            Tuy 3 Trục-Lôi-Hạm đă mang Quốc-kỳ Việt-Nam kể từ ngày 11-2-1954 nhưng các Hạm-Trưởng là người Pháp. Thực-sự vị Hạm-Trưởng đầu-tiên của HQVNCH là HQ Trung-Úy Lâm-Nguơn-Tánh (sau này là Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân). Ông nhận-lănh quyền chỉ-huy chiếc Giang-Pháo-Hạm LSIL 1030 của Pháp.[82] Chiến-hạm này mang số HQ. 30. Chuyến công-tác đầu-tiên của HQVNCH cũng do chiếc HQ. 30 này thực-hiện bằng đường sông, từ Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n đi Cần-Thơ ngang qua kinh Chợ Gạo.[83]

            Khi HQ Đại-Úy Trần-Văn-Chơn đảm-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực thay thế HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ, Ông cũng kiêm- nhiệm luôn chức-vụ Hạm-Trưởng Giang-Pháo-Hạm HQ. 31.[84]

 

 

HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ - Tư-Lệnh HQVN đầu-tiên .

 

 

Tuy tiến được một vài bước nhỏ, sự chuyển-giao quyền-hành này so với Không-Quân vẫn chậm hơn. Cho đến khi khai-diễn chiến-dịch Rừng Sát (9-1955), Hải-Quân Việt-Nam chưa hoàn-toàn thoát ra khỏi-sự lệ-thuộc của Pháp.

            Tháng 5 năm 1955, Pháp trao quyền chỉ-huy Hải-Đoàn Xung-Phong thứ 3. Hải-Đoàn Xung-Phong thứ 4 được trao trong tháng 8 năm 1955.

Tính tới cuối năm 1955, Hải-Quân Việt-Nam gồm có các đơn-vị và cơ-sở sau đây:

            - Hải-Đoàn Xung-phong số 21 (Mỹ Tho)

            - Hải-Đoàn Xung-phong số 23 (Vĩnh Long)

            - Hải-Đoàn Xung-phong số 24 (Sài-G̣n)

            - Hải-Đoàn Xung-phong số 25 (Cần Thơ)

            - 3 căn-cứ Hải-Quân: Sài-G̣n, Cát Lái và Đà Nẵng

            - 4 đồn Thủy-Quân: Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên

            - Trung-tâm Huấn-luyện Nha-Trang

            - Hải-Quân Công-xưởng Ba Son

            - Kho đạn Thành Tuy-Hạ.

            Trước đó, có Hải-Đoàn Xung-phong số 22 do Pháp thành-lập và di-chuyển từ miền Bắc vào, nhưng Hải-Đoàn này đă bị tan-nát khi Việt-minh và Pháp đụng trận. Những chiến-đĩnh khi trao không c̣n bao nhiêu nên sau đó, HD 22XP đă sáp-nhập vào Hải-Đoàn 21XP.

            Về tổ-chức, các Hải-Đoàn không hoàn-toàn giống nhau. Đại-để mỗi Hải-Đoàn có từ 5 đến 7 Quân-Vận-Đĩnh, 1 Giang-Vận-Hạm hay Giang-Pháo-Hạm tăng-phái v.v... Các Hải-Đoàn khi mới thành-lập gọi tên theo nơi trú-đóng, sau đổi thành số 1, 2, 3... và cuối cùng đổi thành các danh-hiệu như trên.[85]

            Rút kinh-nghiệm điều-động hành-quân trong trận Rừng Sát, các Đại-đội Giang-thuyền lần lần giải-tán để biến thành Tiểu-Đoàn thứ hai của Thủy-Quân Lục-chiến khoảng đầu tháng 2-1956. Vào lúc này, lực-lượng Thủy-Quân Lục-chiến gồm có:

- một Bộ Chỉ-Huy,

- hai Tiểu-Đoàn,

- năm Đại-đội Khinh-binh Trợ-chiến,

- một Biệt-động-đội (corps franc) và

- một Phân Thủy-đội Thao-dượt (flottille d'entrainement).[86]

 

Những Kế-hoạch Quân-Số 1955 và Trang-bị thực-sự cho Hải-Quân

            Sau hội-nghị Genève 1954, đất nước bị chia-cắt, vùng đất Việt-Nam Tự-Do chỉ c̣n lại từ sông Bến-Hải trở về Nam đến mũi Cà Mau. Trong khi quân-số toàn-thể Quân-Đội Quốc-gia Việt-Nam bị cắt-giảm, Hải-Quân cũng chịu ít nhiều ảnh-hưởng, nhất là lệnh giải-nhiệm sau chiến-tranh.

Trong dự-án toàn-quân 100,000 người, tất cả HQVN, kể luôn TQLC bị giới-hạn ở quân-số 3, 250 người (3.2%) với:

- Bộ Tham-mưu và cơ-sở phụ-thuộc:            950

- Quân-trường:                                               400

- Thủy-Thủ-Đoàn:                                          1,900

Vào tháng 6 năm 1955, Quân-Đội Quốc-Gia Việt-Nam thi-hành một dự-án gọi là dự-án quân-số 150,000 người. Trên thực-tế, số quy-định là 155,677 người, bao gồm luôn 1,204 nữ phụ-tá và 5,719 dân-chính. Hải-Quân có 4,250 người, trong đó kể luôn 250 dân-chính.

Đây là dự-án đầu-tiên cho phép dân-chính làm việc với Hải-Quân. Khi quân-số QĐQGVN tăng lên gấp rưỡi ( từ 100,000 lên 150,000 người) th́ Hải-Quân chỉ được tăng một tỷ-lệ rất nhỏ nhoi: từ 3,250 lên tới 4,000 quân-nhân (+250 dân-chính) như kể trên mà thôi.

Vào tháng 7-1955, Hải-Quân đă có một quân-số hiện-diện 3,858 người (khoảng 91% cấp-số), phân chia ra như sau:

- Hải-Quân chính-thức 2,567[87] gồm

190 Sĩ-Quan,

2,377 Hạ-Sĩ-Quan và Thủy-Thủ.

            - Thủy-Quân-Lục-chiến 1,291 gồm

43 Sĩ-Quan,

257 hạ Sĩ-Quan và

991 Binh-Sĩ.

 

Quan-niệm Lưu-động-tính và Nguyên-tắc Điều-hợp Quân-đội.

            Trong lịch-sử Quân-Lực Việt-Nam, kế-hoạch quân-số 1955 được coi như kế-hoạch căn-bản về tổ-chức gần suốt 10 năm (1955-1964)[88]. Cho tới năm 1965, v́ chiến-tranh bùng-nổ lớn và cũng v́ sự phát-triển nhân-sự và kỹ-thuật, kế-hoạch trên mới bị thay đổi. Sự thay đổi sau này thật lớn lao.

            Khi c̣n non trẻ, QĐQGVN đă từng ư-thức rằng t́nh-báo nhân-dân tại địa-phương là quan-trọng và quan-niệm tổ-chức quân-đội có tính-cách lănh-thổ. C̣n người Hoa-Kỳ trong khi yểm-trợ cho Việt-Nam chống Cộng-sản, lại chỉ muốn áp-dụng phương-cách riêng của họ. Cuốn Quân-Sử 4 ghi-nhận quan-niệm khác-biệt về tổ-chức quân-đội giữa hai bên Việt-Mỹ như sau:

Người Mỹ muốn quân-đội này (Việt-Nam) phải đặt nặng vấn-đề vào việc lưu-động-tính, và các đơn-vị không dựa vào một tổ-chức lănh-thổ chặt chẽ.[89] 

Quan-niệm lưu-động-tính và nguyên-tắc điều-hợp Quân-đội của người Mỹ đ̣i-hỏi những phương-tiện chuyển-vận tối-tân với trang-bị nặng nề và tốn-kém mà một Quốc-gia non trẻ như Việt-Nam Cộng-Ḥa không thể nào cung-ứng được. Việt-Nam có lúc đă phải nghĩ đến việc tự-lập và t́m thêm đồng-minh.

C̣n có một lầm-lẫn nguy-hại nữa. Đó là khi có nhiều người Hoa-Kỳ tin-tưởng rằng người Nam Việt-Nam muốn người Mỹ có mặt ở Nam Việt-Nam măi măi. Theo Giáo-sư Phạm-Kim-Vinh: “sự thực th́ VNCH chỉ muốn Mỹ đừng can-thiệp vào nội-bộ quốc-gia Việt-Nam. Miền Nam chỉ mong dẹp được cái tṛ chỉ-trích lỳ-lợm của báo-chí Mỹ và sự phê-phán sai-lạc của Quốc-hội Hoa-kỳ”.[90]

 

 

Hải-thuyền được quan-niệm như một lực-lượng địa-phương.

 

Quân-lực Việt-Nam với những phương-tiện địa-phương đă khởi-sự chế-tạo súng nội-hoá tại các Công-Xưởng. Riêng các Hải-Xưởng, HQVN đặt ưu-tiên hàng đầu trong việc đóng ghe hải-thuyền. Một vị Tư-Lệnh Hải-Quân là HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền c̣n đề-nghị gửi cán-bộ du-học tại nhiều quốc-gia khác nhau để tăng-tiến kiến-thức. Tất cả cố-gắng tương-tự không bao lâu đă dần-dần đi vào quên-lăng.

Những quan-niệm của người Hoa-Kỳ về lưu-động-tính, sử-dụng hỏa-lực tối-đa, kèm theo với một hệ-thống yểm-trợ tiếp-vận nặng nề đă gây nguy-hại đến sự thành-bại của cuộc chiến sau này. Khi Hoa-Kỳ c̣n nắm giữ tiếp-vận, mọi chuyện b́nh-thường. Khi Hoa-Kỳ ngưng lại (1973-1975), các phương-tiện tác-chiến suy-sụp nhanh chóng và quan-trọng nhất, cả đến hỏa-lực cũng bị khô cạn. Quân-lực VNCH thiếu-thốn đạn dược, quân-dụng; lập-tức bị lâm-nguy và bị bại trận dễ dàng.

 

Lực-Lượng Hải-Quân Việt-Nam khi Pháp rút lui

            Trước khi rút lui, Pháp đă để lại cho Hải-Quân Việt-Nam[91] một số Chiến-hạm và Giang-đĩnh. Sau đó, cộng thêm với những Giang-đĩnh của các đoàn Tuần-giang bán chính-quy sáp-nhập vào, Hải-Quân Việt-Nam đạt tới những con số như sau:

            - 3 Hộ-Tống-Hạm (PC, Patrol Craft)

            - 2 Hải-Vận-Hạm (LSM, Landing Ship Medium)

- 1 Tàu Thủy-Đạo[92]84 (Bâtiment Hydrographe)

            - 3 Trục-Lôi-Hạm[93]85 YMS (Dragueur: Yard Mine Sweeper)

            - 2 Trợ-Chiến-Hạm (LSSL, Landing Ship Support Large)

            - 5 Giang-Pháo-Hạm (LSIL, Landing Ship Infantery Large)[94]

            - 4 Giang-Vận-Hạm (LCU, Landing Craft Utility)

            - 2 Tuần-Duyên-Hạm[95] (GC, Garde Côtière)

            - 70 Quân-Vận-Đĩnh (LCM, Landing Craft Mechanized) trong số này có 2 Tiền-Phong-Đĩnh[96] (LCM Monitor), 4 Soái-Đĩnh[97] (LCM de Commandement), 53 Quân-Vận-Đĩnh bọc thép (LCM blindé) và 11 Quân-Vận-Đĩnh loại nhẹ (LCM léger).

            - 95 Tiểu-đĩnh gọi chung là Vơ-đét, trong đó có 17 chiếc loại ứng-chiến (Vedette d'interception), 1 Vơ-đét canh-pḥng (Vedette de surveillance), 6 chiếc loại tuần-cảng Y (yard). Ngoài ra là các Tiểu-Giáp-Đĩnh[98]: 36 chiếc loại STCAN, 12 chiếc loại FOM[99]91 dài 8m và 23 chiếc loại FOM dài 11m.

            - 100 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP (Landing Craft Vehicle Personnel), loại tàu nhỏ cỡ như Vơ-đét chở được 6 người) trong đó có 81 loại b́nh-thường và 19 loại nhẹ.

            - 15 Sà-lan trong đó một Sà-lan máy, 1 Sà-lan chở nước và 13 Sà-lan thường.

            - 3 Tàu ḍng[100] (remorqueur)

            Phần lớn chiến-hạm đă cũ và có một vài chiếc không c̣n dùng được.[101]93

 

Cấp-bậc SQHQ và Chức-vụ Phụ-Tá Hải-Quân đầu-tiên

            Trong những năm đầu mới thành-lập, các Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam chỉ mới tốt-nghiệp từ quân-trường. V́ cấp-bậc c̣n quá thấp, SQHQVN không đủ thâm-niên để nắm giữ bất cứ một chức-vụ quan-trọng nào.[102] Ngay cả chức-vụ Trưởng Ban Hải-Quân kiêm Phụ-Tá Hải-Quân VN cạnh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QĐQGVN (đáng lẽ phải là Sĩ-Quan Hải-Quân VN), cũng do giới-chức ở ngoài nắm giữ.

            Khoảng cuối năm 1955, khi Hải-Quân Pháp bắt đầu chuyển-giao quyền chỉ-huy các đơn-vị thuộc Giang-Lực cho Việt-Nam, quân-số Hải-Quân Việt-Nam rất là khiêm tốn. Về cấp Sĩ-Quan, chỉ có một Đại-Úy (Lê-Quang-Mỹ), tất cả Sĩ-Quan Khóa 1, 2, 3 đều là Trung-Úy, Khóa 4 và 5 là Thiếu-Úy[103]. Ngoài ra, c̣n thêm các Sĩ-Quan Hải-Quân đầu-tiên tốt-nghiệp Trường Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp (École Navale de Brest) hồi hương khoảng cuối mùa hè 1955.

Vào năm 1956, nếu không kể đến Hạm-Đội Pháp tại Viễn-Đông, HQ Đại-Tá Récher là Sĩ-Quan thâm-niên hiện-diện của HQ Pháp trên bờ. Ông đảm-nhiệm cả hai chức-vụ Phụ-Tá Hải-Quân cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng lẫn quyền chỉ-huy Hải-Quân Việt-Nam.

            Nhằm tiến-hành ngay việc điều-động Hải-Quân trong những cuộc Hành-Quân b́nh-định, nên vào ngày 1 tháng 7 năm 1955[104] Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm bổ-nhiệm Thiếu-Tướng Trần-Văn-Đôn vào chức-vụ Trưởng Ban Hải-Quân thay thế Đại-Tá Récher. Tướng Đôn đang làm phụ-tá cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng nay kiêm-nhiệm luôn việc chỉ-huy Hải-Quân[105]. Sự chuyển-quyền chỉ có tính-cách chính-trị v́ toàn-thể giới-chức Pḥng Hải-Quân thuộc quyền Thiếu-Tướng Đôn đều là các Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp.

 

Thiếu-Tá Mỹ và những cuộc Hành-Quân đầu-tiên

            Trong khi đó, cuộc Hành-Quân tại Rừng-Sát khai-diễn[106]98. Đáng lẽ cuộc Hành-Quân đă được tiến-hành từ tháng 7-1955, nhưng măi tới trung-tuần tháng 9 mới khởi-sự được, bởi v́ Quân-đội chưa hoàn-toàn sử-dụng được Hải-Quân để bao vây khu Rừng Sát. Lúc đó, Quân-đội Việt-Nam chỉ mới có Hải-Đoàn Xung-Phong số 21 thuộc quyền điều-khiển của người Việt, do Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ làm Hải-Đoàn-Trưởng.[107] Các Hải-Đoàn khác, tuy đă do Sĩ-Quan Việt-Nam làm Chỉ-Huy-Trưởng[108], nhưng về hệ-thống vẫn c̣n trực-thuộc Bộ Chỉ-Huy Giang-lực (COFFLUSIC) của Pháp. Nếu muốn sử-dụng các Hải-Đoàn này, chức-quyền Việt-Nam phải thông-báo cho người Pháp.

            Khi Bộ TTM/QĐQGVN thông-báo cho Bộ Chỉ-Huy Giang-Lực Pháp biết Việt-Nam cần sử-dụng Hải-Đoàn để hành-quân, người Pháp đồng-ư. Nhưng v́ điều-kiện của Pháp đưa ra là tránh tiếng cho chính-quyền nước họ, Việt-Nam phải đặt tất cả các Hải-Đoàn tham-chiến dưới quyền chỉ-huy tạm-thời của HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ.

            - Từ ngày 5 tháng 6 năm 1955 đến ngày 19 tháng 6 năm 1955, Hải-Quân tham-dự cuộc Hành-Quân Đinh-Tiên-Hoàng 1 tại miền Tây[109]. Hải-Đoàn 25 đổ quân án-ngữ, chiếm Cái Vồn, Cần Thơ. Khi khai-diễn, quân Ḥa-Hảo của Ông Trần-Văn-Soái tức Năm Lửa bị bất-ngờ, chống-cự rất yếu. Lực-Lượng trục Vĩnh-Long Cần-Thơ bị tan-ră ngay. Ngoài một số theo Ông Soái chạy về Đồng-Tháp-Mười, một số bị bắt (239 người), số quân ra quy-thuận rất lớn, có tới 1,823 người. Khi chiến-dịch này chấm-dứt ngày 12-8-1955, Hải-Quân không bị thiệt-hại ǵ đáng kể.

           

 

Quang-cảnh Khu Đền Thánh Cao-Đài (H́nh nhỏ: Huy-hiệu trên mũ của quân-nhân Cao-Đài).

 

- Ngày 1-8-1955, Chính-phủ Ngô-Đ́nh-Diệm giải-tán các Bộ Chỉ-Huy và cơ-cấu trực-thuộc của Giáo-Phái để thống-nhất quân-lực.[110]

Tháng 8, trong những hành-động gây hấn chống chính-phủ, quân-đội B́nh-Xuyên tấn-công cả tàu thuyền qua lại trên sông Ḷng Tào. Trong một chuyến tập-kích, 7 Đoàn-Viên Hải-Quân Việt và Pháp bị thương, 1 người Pháp bị giết trên Trục-Lôi-Hạm Chương-Dương. Chiến-hạm này đă bị tấn-công bất-ngờ trên đường đi thử máy đường trường, sau khi được đại-kỳ tại Hải-Quân Công-Xưởng. Ngày 5-8-1955, các Quân-Vận-Đĩnh LCM Việt-Nam bắt đầu hộ-tống các tàu giang-hành trên 2 con sông Ḷng Tào và Soài Rạp.[111]

 

Diễn-tiến về Huấn-luyện Sĩ-Quan

Trong khi đó, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang huấn-luyện các khóa Sĩ-Quan sau đây:

- Khóa 6 Sĩ-Quan Hải-Quân với tổng-số 21 Sinh-Viên Sĩ-Quan, gồm 16 ngành Chỉ-Huy và 5 ngành Cơ-Khí. Nhập trường ngày 21 tháng 04 năm 1955, thời-gian thụ-huấn 11 tháng. Măn khóa ngày 08 tháng 03 năm 1956

            - Khóa 7 Sĩ-Quan Hải-Quân bắt đầu tuyển-mộ vào cuối năm 1955. Khóa này được khai-giảng tại Nha-Trang vào đầu năm 1956. Học-tŕnh kể cả thực-tập ngoài đơn-vị, được nâng lên hai năm với đầy-đủ các môn học văn-hóa, kiến-thức và chuyên-nghiệp cho hai ngành chỉ-huy và cơ-khí.

 

 

Các Hộ-Tống-Hạm PC đầu tiên của HQVN: HQ. 01, HQ. 02, HQ. 03.

 

Đụng-độ Quan-trọng Đầu-tiên của Hải-Quân Việt-Nam

            Trong khi các cuộc Hành-Quân tranh-chấp với B́nh-Xuyên và Giáo-phái diễn-tiến, Thiếu-Tá Mỹ trở thành Tư-lệnh Hải-Quân đầu-tiên của Việt-Nam:

Vào ngày 20 tháng 8 năm 1955 bằng một nghị-định chính-thức, Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm bổ-nhiệm Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ[112] vào chức-vụ Trưởng Ban Hải-Quân, Phụ-Tá Hải-Quân[113] cạnh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QĐQGVN (thay Tướng Đôn) để chỉ-huy Hải-Quân và đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến.

            Ngày 15 tháng 9, Hải-Quân Việt-Nam đă bắt gặp tại khúc quanh Quatre Bras của sông Ḷng-Tào 4 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP của B́nh-Xuyên đang được Dương-Vận-Hạm LST 106 của Pháp tiếp-tế quân-dụng. Hải-Quân Pháp giúp-đỡ cho các Tiểu-Vận-Đĩnh B́nh-Xuyên chạy thoát.

Sau khi bị Quân-đội Quốc-gia đánh bật khỏi Đô-thành, quân B́nh-Xuyên kéo về ẩn-náu tại Rừng-Sát. Ngày 21 tháng 9 năm 1955, Chiến-dịch Hoàng Diệu được phát-động để tấn-công và càn quét cứ-điểm cuối cùng của B́nh-Xuyên tại đây. Đại-Tá Dương-Văn-Minh được chỉ-định làm Tư-lệnh Chiến-dịch. Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân đóng tại Rạch Cát.

Thành-phần Hải-Quân Việt-Nam tham-dự gồm có

- HQ. 01,

- Các Giang-Pháo-Hạm,

- Các Giang-Vận-Hạm,

- Hải-Đoàn Xung Phong số 21, 22, 23, 24, 25 và

- Tiểu-Đoàn 1 TQLC.

Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ-huy tổng-quát lực-lượng Hải-Quân tham-dự từ Soái-Hạm Chi Lăng (HQ. 01).

 

 

Sơ-đồ Cuộc Hành-Quân Rừng-Sát, càn quét cứ-điểm cuối cùng của B́nh-Xuyên. Trong các trận chiến vùng sông rạch Nhà Bè-Vũng Tàu. Hải-Quân đóng góp nhiều công trạng .

 

Nhiệm-vụ trước tiên của Hải-Đoàn Xung-phong và TQLC là tuần-soát và chiếm-cứ những đồn cũ của B́nh-Xuyên trên sông Ḷng-Tào, giải-tỏa đoạn thủy-lộ huyết-mạch Vũng-Tàu Nhà Bè, mở cho sự lưu-thông của dân-chúng và thương-thuyền ra vào Sài-G̣n.[114]

Đại-Tá Dương-Văn-Minh cũng có khi đặt Bộ Tư-Lệnh lưu-động của Ông trên Soái-Hạm Chi Lăng (HQ. 01). Từ đó, Tư-Lệnh Chiến-dịch chỉ-huy các cuộc tiến quân của Bộ-Binh và điều-khiển các cuộc tác-xạ đồng-loạt bằng pháo-binh vào các cứ-điểm của B́nh Xuyên. Khi thủy-triều dâng cao, nước tràn ngập các hầm trú-ẩn, bộ-đội B́nh-Xuyên phải leo lên cây ẩn-núp và trở thành mồi ngon cho pháo-binh và hải-pháo tác-xạ bằng đạn nổ chụp.

Trận đánh duy-nhất của Chiến-dịch đă xảy ra tại Rạch-Lá (Banc de Corail). B́nh-Xuyên tấn-công Chiến-đĩnh Hải-Quân bằng súng đại-bác không giật SKZ. Hải-Quân phản-công[115] và Thủy-Quân Lục-Chiến lập-tức đổ-bộ. Một Trung-đội B́nh-Xuyên bị tiêu-diệt.

Sau trận này, B́nh-Xuyên càng suy-yếu thêm. Quân-đội Quốc-gia dùng chiến-thuật phong-tỏa và pháo-kích. Một pháo-đội 105 ly được Quân-Vận-Đĩnh LCM chuyên-chở đến g̣ Mang-Thít làm căn-cứ hỏa-lực. V́ Pháo-binh tác-xạ liên-tục ngày đêm khắp vùng, quân B́nh-Xuyên không c̣n chỗ trú-ẩn an-toàn phải ra đầu hàng. Chiến-dịch Hoàng-Diệu kết-thúc ngày 24 tháng 10 năm 1955.

 

Danh-xưng Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa.

            Ngày 23-10-1955, trong một cuộc trưng-cầu dân-ư truất-phế Bảo-Đại và bầu Ông Ngô-Đ́nh-Diệm làm Quốc-Trưởng, 98% cử-tri bỏ phiếu tán-thành. Tân Quốc-Trưởng Ngô-Đ́nh-Diệm tuyên-bố Hiến-Ước tạm-thời tại Dinh Độc-Lập ngày 26-10-1955. Việt-Nam là nước Cộng-Ḥa, Quốc-Trưởng lấy danh-hiệu là Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Ḥa.[116]

 

 

Quốc-Trưởng Ngô-Đ́nh-Diệm trở thành Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Ḥa ngày 26-10-1955.

 

            Với danh-xưng mới là Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa, Hải-Quân gửi các đơn-vị tham-dự các chiến-dịch tại Miền Tây Nam-phần: Đinh-Tiên-Hoàng 2 và Nguyễn-Huệ.

            Khi Chiến-dịch Đinh-Tiên-Hoàng 1 tấn-công các căn-cứ Hoà-Hảo, lực-lượng giáo-phái đă phải phân-tán. Quân-đội Quốc-Gia dồn nỗ-lực vào khu Rừng-Sát. Khi quân Ḥa-Hảo tập-trung lại được lực-lượng, Quân-đội Quốc-gia mở Chiến-dịch Đinh-Tiên-Hoàng 2 vào ngày 22-9-1955. Những trận đánh Ḥa-Hảo đáng kể nhất đă diễn ra tại Nam Thái-Sơn/ Ba-Thê, Rạch-Giá / Hà-Tiên, Vĩnh-Phú, Cái-Dầu, Giồng-Riềng. Nhiều cuộc đột-nhập bằng Giang-đĩnh và đặc-biệt bằng những Xuồng máy loại M 2 vào vị-trí địch-quân đă xảy ra. Một Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP bị bắn ch́m trên đường hành-quân.

Trung-Đoàn Lê-Quang là đơn-vị thiện-chiến của Ông Lê-Quang-Vinh (tức Ba-Cụt) phục-kích một Tiểu-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến, gây thiệt-hại khá nặng cho quân ta tại Giồng Riềng. Chiều ngày 6-12-1955, TQLC đă tấn-công một đại-đội của Ba-Cụt nhiều đợt. Đối-phương chống trả tới chiều tối rồi lợi-dụng ban đêm trốn thoát.[117]

 

Các Hải-Đoàn Xung-Phong rất hữu-dụng trong những cuộc hành-quân tại Đồng Tháp Mười và nhữngvùng sông rạch khác ở miền Nam Việt-Nam.

 

Cũng trong tháng 12-1955, quân Chính-phủ c̣n mở một cuộc hành-quân vào Cái-Cái để giải-tỏa áp-lực của quân-đội Năm-Lửa. Chiến-dịch Đinh-Tiên-Hoàng 2 kết-thúc.[118]

Nhận-xét về giá-trị và khả-năng Giang-Lực trong giai-đoạn này, một bản Tường-tŕnh Hành-Quân của Bộ Tổng-Tham-Mưu đă viết như sau: Trên cả hai phương-diện b́nh-định lẫn hành-quân, các Hải-Đoàn Xung-Phong rất hữu-dụng tại miền Nam Việt-Nam v́: hỏa-lực mạnh, di-động nhanh-chóng và dễ-dàng phân-tán mỏng được.

 

Sinh hoạt của Sĩ-Quan Hải-Quân

            Có nhiều bài viết do tác-giả ngoài Hải-Quân đă đề-cập đến cuộc sống nhàn-hạ của các Sĩ-Quan Hải-Quân như làm việc ít giờ, đi học toàn-thời tại các trường thuộc Viện Đại-học Sài-G̣n, dư thời-gian ăn chơi...

Thực-sự không phải như vậy. Với một số lượng Sĩ-Quan chuyên-nghiệp nhỏ bé chưa tới 100 người cho tới cuối thập-niên 1950, họ rất vất vả vừa trau dồi hải-nghiệp, vừa làm việc, vừa chiến-đấu. Dù kinh-nghiệm chưa đủ, các Sĩ-Quan Hải-Quân thời phôi-thai luôn luôn bận rộn, phải nhận-lănh những nhiệm-vụ nặng-nề ngoài thâm-niên, cấp-bậc kinh-nghiểm và vượt quá cả tuổi trẻ của họ.[119]

            Qua h́nh-ảnh c̣n sót lại của thập niên 1950, ta thấy Sĩ-Quan Hải-Quân Lê-Quang-Mỹ rất trẻ. Trong khi lo-lắng thành-lập Hải-Quân, Ông c̣n đưa đơn-vị hành-quân trong sông, Ông cũng theo chiến-hạm thao-dượt tập-đội ngoài biển, cùng lúc Phụ-Tá cho TTMT/QĐVNCH, Ông làm Tư-Lệnh Hải-Quân, chỉ-huy TQLC, Giám-đốc Hải-Quân Công-Xưởng, Hạm-Trưởng Soái-Hạm...

Vào giai-đoạn giao-thời 1955-1957, cùng lúc điều-động nội-bộ Hải-Quân, Ông c̣n phải đối-phó cả phần ngoại-vi. Tài-liệu ghi-nhận Thiếu-Tá Mỹ đă phải đương-đầu với nhiều phe-phái chính-trị, các giới-chức quân-sự trong và ngoài Quân-Đội. Ông Lê-Quang-Mỹ đă từng gặp nhiều khó-khăn và vượt qua trở-ngại để xây-dựng và bành-trướng Hải-Quân. Trong khi đó, những thế-lực Việt-Nam, Pháp, Mỹ với quan-niệm khác-biệt lại muốn lái HQVN theo các chiều-hướng khác nhau.

Khi xem qua những thành-tích Hải-Quân thời sơ-khởi, đặc-biệt là công-việc đa-đoan của HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ trong những ngày đầu của HQVNCH, Nhà Văn Điệp-Mỹ-Linh đă tự hỏi một cách thán-phục như sau: "Qua những tài-liệu, sách vở mà tôi đă đọc..., một câu hỏi được đặt ra là: làm thế nào mà Ông Lê-Quang-Mỹ có thể thực-hiện được tất cả những việc đó ? Thật không dễ giải-đáp được."[120]

 

Hải-Quân Thuần-túy Việt-Nam

            Ngay khi nhậm-chức được 4 ngày, Tư-Lệnh Hải-Quân Lê-Quang-Mỹ bổ-nhiệm các Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam vào những chức-vụ chỉ-huy then chốt. Các Sĩ-Quan Pháp bị thay-thế hết, chỉ trừ có Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang được lưu-giữ đến ngày 7 tháng 11 năm 1955. Phó Đô-Đốc Edouard Jozan, Tư-Lệnh Hải-Quân Pháp tại Viễn-Đông, lập-tức thuyên-chuyển tất cả số Sĩ-Quan này sang làm việc bên Phái-bộ Huấn-Luyện Hỗn-hợp Mỹ-Pháp TRIM[121]. Lúc đó, thành-phần Hải-Quân Mỹ trong TRIM rất nhỏ bé, chỉ gồm có 2 Sĩ-Quan Hải-Quân (và 1 Sĩ-Quan Thủy-Quân Lục-Chiến) trong một tổng-số là 155 người của phái-bộ.[122] Nh́n vào con số ít ỏi đó, người ta thấy có lẽ cả Bộ TTM/QĐVNCH cũng như Bộ Quốc-Pḥng Hoa-Kỳ đều không mấy quan-tâm tới sự hiện-hữu cần-thiết của Hải-Quân Việt-Nam ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến 1954-1975.

            - Ngày 7 tháng 11, Pháp chuyển-giao Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang lại cho Hải-Quân Việt-Nam[123]. Kể từ đó, mỗi năm Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang đào-tạo khoảng 1,200 nhân-sự các cấp.

            - Tháng 12 ngày 7, để bành-trướng các hoạt-động ở sông rạch, mỗi Hải-Đoàn được trang-bị 5 - 6 LCM, 4 LCVP và 5 - 6 hô bo (hors bord) có vận-tốc cao.

            - Hải-Quân tiếp-nhận hai Trợ-Chiến-Hạm (LSSL - Landing Ship Support Large): HQ. 225 và HQ. 226.

 

 

Trợ-Chiến-Hạm HQ. 226 (LSSL)

 

            Về quân-số, vào tháng 7 năm 1955, Hải-Quân Việt-Nam có 3,858 người, kể cả 1,291 Thủy-Quân Lục-Chiến.[124]

            Cũng trong năm này, Hải-Quân thành-lập các lực-lượng lớn và tất cả Bộ Chỉ-Huy đều đặt tại Sài-G̣n.

(1) Hải-Lực. Gồm có các chiến-hạm:

            - Ba PC (Patrol Craft or Submarine Chaser) Hộ-Tống-Hạm: Chi Lăng HQ. 01, Vạn Kiếp HQ. 02, Đống Đa HQ. 03.

            - Ba YMS Trục-Lôi-Hạm: Hàm Tử HQ. 111, Chương Dương HQ. 112, Bạch Đằng HQ. 113.

            - Hai LSSL Trợ-Chiến-Hạm: HQ. 225 Nỏ Thần[125] và HQ. 226 Linh Kiếm.

            - Bốn LSM (Landing Ship Medium) Hải-Vận-Hạm: Hát Giang HQ. 400, Hàn Giang HQ. 401, Lam Giang HQ. 402, Ninh Giang HQ. 403.

            - Và 10 Tuần-Duyên-Đĩnh WBP[126] (một loại Coast Guart Patrol Cutters).

(2) Giang-Lực[127]. Gồm:

- 5 Hải-Đoàn. Mỗi Hải-Đoàn được trang-bị tối-thiểu 5 Quân-Vận-Đĩnh (LCM - Landing Craft, Mechanized), 4 Tiểu-Vận-Đĩnh (LCVP - Landing Craft, Vehicle and Personnel), 5 Hô bo có vận-tốc cao.

- 4 Giang-Pháo-Hạm (LSIL - Landing Ship, Infantry, Large).

- 5 Giang-Vận-Hạm (LCU - Landing Craft Utility)

- 4 YTL (Yard Tug, Light or Harbor Craft).

- Hậu-cứ các Hải-Đoàn được đặt tại Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long Xuyên, Cát Lái.

(3) Các đơn-vị bờ[128] gồm có:

- Bốn Duyên-khu tại Phú Quốc, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Nẵng.

- Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha Trang.

- Hải-Quân Công-Xưởng,

- Trung-tâm Tiếp-liệu

- Các Thủy-xưởng Cần Thơ, Đà Nẵng.

(4) Thủy-Quân Lục-Chiến. Kể từ ngày 21 tháng 12, Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam Lê-Quang-Mỹ công-bố Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam h́nh-thành và bắt đầu hoạt-động như là một Đại-đơn-vị của Hải-Quân.[129]

Bộ Tư-lệnh Hải-Quân được đặt ở Trại Bạch Đằng sau khi Pháp bàn-giao căn-cứ Caserne Francis Garnier ở bờ Sông Sài-G̣n.

Về Quân-Y, Y-sĩ Thiếu-Tá Phạm Tấn Tước đảm-nhiệm chức-vụ Y-Sĩ-Trưởng Hải-Quân. Bộ Chỉ-huy Thủy-Quân Lục-Chiến cùng đóng chung ở Trại Bạch Đằng. Y-sĩ Thiếu-Tá Phạm Tấn Tước cũng phụ-trách luôn phần quân-y cho TQLC.[130]

 

Hải-Quân trong Chiến-dịch Nguyễn-Huệ

            Chiến-dịch Nguyễn-Huệ khai-diễn ngày 1-1-1956 dưới quyền Tư-lệnh của Thiếu-Tướng Dương-Văn-Minh. Vùng Hành-Quân rất rộng, được chia ra hai khu chiến và một khu trái độn:

Khu chiến miền Tây, hữu-ngạn sông Hậu từ Châu-đốc Rạch-Giá xuống Cà-Mau dưới quyền chỉ-huy của Đại-Tá Dương-Văn-Đức. Nhiệm-vụ chính là thanh-toán chủ-lực của ông Trần-Quang-Vinh và các lực-lượng giáo-phái ly-khai đang khuấy rối đồn bót.

Khu chiến Đồng-Tháp, dưới quyền chỉ-huy của Trung-Tá Nguyễn-Văn-Là. Nhiệm-vụ chính là thanh-toán tàn-quân của ông Trần-Văn-Soái.

Khu trái độn là phân-khu Vĩnh-Long, dưới quyền điều-động của Đại-Tá Nguyễn-Văn-Quan.

Chính-phủ đă huy-động vào chiến-dịch những lực-lượng hùng-hậu. Lần đầu-tiên có sự tham-dự của Sư-Đoàn 4 Dă-chiến, các Sư-Đoàn 11, 14, 15 khinh-chiến, các Trung-Đoàn Địa-phương, Cảnh-sát, Công-an Lưu-động.

Hải-Quân cũng tập-trung những thành-phần rất đáng kể như sau:

- 4 Hải-Đoàn Xung-phong 21, 22[131], 23, 24

- 2 Giang-Pháo-Hạm

- 1 Trợ-Chiến-Hạm

- 3 Giang-Vận-hạm

- Một số lượng lớn Xuồng M2

Trong số đó, Khu-chiến Đồng-Tháp được phân-chia 3 HĐXP, 1 LCU và 20 Xuồng M2. Hải-Quân hoạt-động đắc-lực trong khu chiến này. Đặc-biệt là GĐ 21XP giữ an-ninh rất thành-công cho sườn phía Bắc của Sư-Đoàn 14 trong vùng giáp-giới Việt-Miên

Chiến-dịch Nguyễn-Huệ nhắm vào việc b́nh-định, tiễu-trừ lực-lượng giáo-phái ly-khai. Nhiệm-vụ giao-phó được coi như thành-công rực rỡ. Chiến-dịch này chấm-dứt ngày 31-5-1956 đánh dấu sự hoàn-thành với việc mang Ông Trân-Văn-Soái về quy-thuận và việc bắt được Ông Ba-Cụt tại trận-tiền.[132]

 

Những ngày cuối của Hải-Quân Pháp

            Năm 1956 đánh dấu sự chấm-dứt lệ-thuộc nước Pháp, Lực-Lượng Hải-Quân Pháp tại Viễn-Đông (Forces Navales en Extrême-Orient: viết tắt FNEO) chính-thức giải-tán vào ngày 26 tháng 4, 1956. Tuy vậy, một số Sĩ-Quan và Đoàn-Viên người Pháp làm việc chung với đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam cũng vẫn c̣n.

            Hải-Lực nhận thêm 3 Giang-Pháo-Hạm (LSIL) nữa để có đủ 5 chiếc như dự-trù: Long Đao HQ. 327, Thần Tiễn HQ. 328, Thiên Kích HQ. 329, Lôi Công HQ. 330, Tầm Sét HQ. 331.

Tháng 6 năm 1956, Trung-Hoa Dân-quốc Đài-Loan gửi 2 Khu-Trục-Hạm Hộ-Tống mang quân đổ-bộ chiếm đóng đảo Ba-B́nh Itu-Aba. Để xác-nhận chủ-quyền của Việt-Nam, HQVNCH chỉ-thị Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ. 04 trên đường từ Subic hồi-hương, bắt đầu tuần-tiễu vùng biển thuộc quần-đảo Trường-Sa.

Ngày 14 tháng 9 năm 1956, Hải-Quân Công-Xưởng tức Cơ-xưởng Ba Son lớn nhất của toàn cơi Việt-Nam và Đông-Nam-Á trở về với quyền sở-hữu của Hải-Quân Việt-Nam. Vào hồi 9 giờ 45 phút sáng hôm đó, lá cờ tam-tài được hạ xuống, chấm-dứt 98 năm thời Pháp-thuộc. Đứng dưới lá quốc-kỳ màu vàng ba sọc đỏ của Việt-Nam vừa được kéo lên kỳ-đài hải-xưởng, Tư-Lệnh HQVN, HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ được chỉ-định kiêm-nhiệm luôn chức Giám-Đốc.[133]

 

Hải-Quân Công-Xưởng tức Sở Ba Son, Cơ-xưởng lớn nhất vùng Đông-Nam-Á (h́nh chụp cuối thập-niên 1940)

 

            Trong năm này, kế-hoạch nghiên-cứu một Lực-Lượng Hải-Thuyền để tuần-tiễu và bảo-vệ duyên-hải[134] được đệ-tŕnh Bộ Quốc-Pḥng. Căn-cứ trên thực-trạng "ngân-khoản eo-hẹp của một quốc-gia mới thu-hồi độc-lập không cho phép mua hạm-đội lớn", đây là một giải-pháp tự-lập có thể thi-hành được, không cần nhờ vả ngoại-bang. Giới-chức nghiên-cứu hy-vọng như vậy. Thế nhưng cũng lại v́ ngân-quỹ quốc-pḥng c̣n quá eo-hẹp mà trong khi "hạm-đội lớn" không có, kế-hoạch "hải-thuyền nhỏ" cũng chưa được phê-chuẩn.

 

Hải-Quân Công-Xưởng và Tiến-bộ mới

Số-lượng chiến-hạm và chiến-đĩnh HQVN gia-tăng. Nhu-cầu sửa chưă[135] đ̣i hỏi sự gia-tăng nhân-lực cho Hải-Quân Công-Xưởng (HQCX). Ước-tính đề-nghị cần phải có một số lượng dân-chính lên tới 1, 350 người. Vào cuối năm 1956, 52 nhân-viên gồm Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Dân-chính thuộc HQVNCH được gửi đi huấn-luyện ở Hải-Xưởng Mỹ tại Subic Bay, Phi-Luật-Tân. Sau đó, 19 kỹ-sư và chuyên-viên kiến-trúc tàu bè người Nhật-Bản được tuyển-chọn và gửi qua để trợ-giúp kỹ-thuật cho HQCX Sài-G̣n.

Song song với những cải-tiến hoạt-động tại HQCX cũng như tại các Hải-Xưởng khác, toàn-thể Hải-Quân Việt-Nam bắt đầu áp-dụng những phương-cách bảo-tŕ và sửa-chữa mới mẻ, hữu-hiệu hơn khi trước. Thời Pháp, mỗi khi sửa máy, Cơ-khí-viên phải điều-tra để phát-hiện sự hư-hỏng, rồi tháo rời từng chi-tiết máy. Khi thấy bộ-phận nào hư-hỏng, nhân-viên chỉ sửa chữa hay thay thế cơ-phận hư-hỏng đó, c̣n những bộ-phận khác vẫn để tiếp-tục sử-dụng.

Theo phương-pháp mới, toàn-thể khối máy hư hay đáo-hạn được thay thế bằng nguyên khối máy mới. Các loại máy chánh, máy phụ, máy điện v.v... đều được sủa chữa định-kỳ. Khi chiến-hạm chiến-đĩnh đến niên-hạn vào xưởng đại-kỳ, Công-Xưởng sẽ tháo gỡ toàn-bộ các máy, mang đi sửa chữa và thường khi đưa toàn-bộ máy mới xuống thay thế, không sửa chữa chi-tiết dưới tàu.[136] Các máy cũ hay các khối máy hư-hỏng được giám-định phế-thải hay tân-trang bởi các xưởng chuyên-môn cho riêng loại máy đó.

Phương-cách mới giúp việc theo dơi t́nh-trạng kỹ-thuật chiến-hạm, chiến-đĩnh được dễ dàng. Công-tác sửa chữa đại-kỳ, tiểu-kỳ hay bất-thường đều được thi-hành rất sát với chương-tŕnh dự-trù đă tiên-liệu dài hạn từ trước.

 

Biến-chuyển đáng nói của năm 1956

Các sử-gia, khi sưu-tầm và nghiên-cứu về HQVNCH, đă đồng-ư rằng năm 1956 là năm có nhiều diễn-biến mạnh mẽ đưa Hải-Quân Việt-Nam đến giai-đoạn phát-triển (1957-1967) trong khi thiếu thốn phương-tiện:

Hải-lực Việt-Nam Cộng-Ḥa chỉ gồm có Chiến-hạm nhỏ bé nhưng đă mang lại sự tự-hào cho tinh-thần Quốc-gia Dân-tộc[137]. H́nh ảnh Quốc-kỳ được kéo lên trên kỳ-đài gây những xúc-động rất lớn lao làm nức ḷng mọi người.

Cao-trào Độc-lập dâng cao, quân-dân Việt-nam Cộng-Ḥa (VNCH) quyết-tâm đẩy ảnh-hưởng thực-dân Pháp ra khỏi lănh-thổ[138]129. Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm gây áp-lực mạnh để Quân-đội Viễn-chinh Pháp phải rút ra sớm[139]130, trước hạn-kỳ.

Theo kế-hoạch Việt-Pháp kư-kết th́ Hải-Quân VNCH sẽ tăng lên đến 9,000 người. Chiến-hạm, Chiến-đĩnh và Phi-cơ được dự-trù trang-bị như sau:

Hải-lực:

- 4 Khu-trục-Hạm DE,

- 10 Hộ-Tống-Hạm PC và

- 27 Tuần-Duyên-Đĩnh CGUB;

Giang-lực:

- 4 Giang-Pháo-Hạm LSIL,

- 2 Trợ-Chiến-Hạm LSSL,

- 4 Giang-Vận-Hạm LCU,

- 5 Hải-Đoàn Xung-phong (mỗi đơn-vị gồm 9 Quân-Vận-Đĩnh LCM và 8 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP);

Hải-Vận:

- 4 Dương-Vận-Hạm LST và

- 4 Hải-Vận-Hạm LSM;

Không-tuần:

-         1 Phi-đội Thủy-phi-cơ.[140]

 

 

-        

Khi tràn vào Việt-Nam, người Nhật đă tịch-thu chiến-hạm, chiến-đĩnh của Pháp. Khi Nhật đầu hàng đồng-minh, đến lượt Hải-Quân Pháp được sử-dụng phương-tiện của Nhật. Đây là một loại Thủy-Phi-Cơ từ thời Nhật-thuộc.

 

            Nay HQVNCH đẩy Hải-Quân Pháp ra đi th́ chương-tŕnh một thời được mong đợi này không c̣n nữa.

Trong khi hai Chính-phủ Việt-Nam và Pháp đang đối đầu về chính-trị, với tư-cách Tư-lệnh Hải-Quân một Quốc-gia độc-lập, HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ kư ngay lệnh bổ-nhiệm các Sĩ-Quan HQVN nắm lấy hết quyền chỉ-huy của Sĩ-Quan Pháp trên chiến-hạm cũng như tại mọi đơn-vị khác, kể cả TQLC [141].

Hải-Quân ư-thức ngay trách-vụ bảo-vệ các hải-đảo ngoài khơi Biển Đông rất sớm:

Ngay khi có quyền điều-động Chiến-hạm, HQVNCH chỉ-thị Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ. 04, trên đường hồi-hương (sau đại-kỳ ở Subic Bay về) tuần-tiễu quần-đảo Trường-Sa, chứng-minh chù-quyền lănh-hải.[142]

Một số hải-đảo quan-trọng trong toàn vùng Biển Đông đă được thủy-thủ Việt-Nam cắm bia để xác-nhận chủ-quyền.

Về việc tăng-cường pḥng-thủ Hoàng-Sa, HQVNCH đă gửi ra đảo những đơn-vị thiện-chiến của Thủy-Quân Lục-Chiến.

Về kinh-tế, HQVNCH đồng-thời vừa trợ-giúp kế-hoạch vừa cung-cấp phương-tiện khai-thác phân chim ở Hoàng-Sa. Một kế-hoạch tương-tự cũng được dự-trù cho Trường-Sa.

 

Hoạt-động của Hải-Lực trong những Ngày đầu .

            Để tuần-dương, đầu tiên Hải-Quân Việt-Nam được trang-bị 3 Hộ-Tống-Hạm: Chi Lăng HQ. 01, Vạn Kiếp HQ. 02, Đống Đa HQ. 03. Tiếp theo, hai chiếc nữa là Tụy-Động HQ. 04 và Tây Kết HQ. 05 cũng được Pháp trao vào năm 1956. HQ Trung-Úy Nguyễn-Ngọc-Quỳnh đại-diện Hạm-Trưởng nhận-lănh HQ. 04 tại Sài-G̣n.[143] Ông Quỳnh mang chiến-hạm ra Đà-Nẵng để trao lại Hạm-Trưởng chính-thức là HQ Đại-Úy Trần-Văn-Phấn tại đó.

            Những ngày đầu của Hải-Lực đă thực-sự xảy ra nhiều biến cố dồn dập: nhận-lănh tàu bè vội vàng trong khi HQVN c̣n non yếu kinh-nghiệm, không đủ nhân-lực và dụng-cụ; lại thiếu-thốn yểm-trợ, sửa chữa; nhân-viên chưa quen đơn-vị đă phải hoạt-động hành-quân, thăm viếng, thao-diễn, tác-chiến liên-tục... Chiến-hạm hư-hại đáng kể.

            Tuy vậy, khi nghe tin có một vài chiến-hạm của Hải-Quân Trung-Hoa CS đang lảng-vảng ở vùng biển Hoàng-Sa, Tư-Lệnh Hải-Quân, HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ liền dẫn ngay một hải-đội gồm các Hộ-Tống-Hạm và vài loại chiến-hạm khác nhau ra vùng Hoàng-Sa để biểu-dương lực-lượng. Đó cũng là dịp để các chiến-hạm Việt-Nam thám-sát Quần-đảo này lần đầu-tiên.[144]

Để đánh dấu những diễn-biến trưởng-thành quan-trọng, Hải-Quân Việt-Nam đă tổ-chức một cuộc diễn-hành để biểu-dương lực-lượng trên sông Sài-G̣n trong ngày Quốc-Khánh 26/10/1956. Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm đă đến chủ-tọa cuộc lễ.[145]

            Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) gửi Tuần-Dương-Hạm USS Los Angeles (CA-135), có gắn Hoả-tiễn Talos đến thăm-viếng thiện-chí.

            Theo hồi-ức của Cựu Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh[146] (bài viết năm 1993), vào ngày đó (26/10/1956) Ông là Chỉ-huy-Trưởng Hải-Lực. Lực-Lượng dưới quyền HQ Đại-Úy Tánh (sau này trở thành Hạm-Đội HQVNCH) mới chỉ có 4 Hộ-Tống-Hạm PC, 3 Trục-Lôi-Hạm YMS, 2 Trợ-Chiến-Hạm LSSL, 5 Giang-Pháo-Hạm LSIL, 3 Hải-Vận-Hạm LSM và 10 chiếc Giang-Vận-Hạm LCU. Hai chiếc Hải-Vận-Hạm LSM, HQ. 401 Ninh Giang và HQ. 402 Lam Giang[147] chỉ vừa mới được bàn-giao có 4 ngày trước buổi diễn-hành.

            Chuyến hải-hành tập-đội có tính-cách quy-mô đầu-tiên được thực-hiện vào mùa gió Tây-Nam, do đích thân Tư-Lệnh Hải-Quân, HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ điều-động. Phụ-Tá của Ông là Chỉ-huy-Trưởng Hải-Lực, HQ Đại-Úy Lâm-Nguơn-Tánh. Đoàn tàu gồm có 2 Hộ-Tống-Hạm PC (HQ. 2, HQ. 3), 1 Trục-Lôi-Hạm YMS (HQ. 111), 1 Trợ-Chiến-Hạm LSSL (HQ. 225), 2 Giang-Pháo-Hạm LSIL (HQ. 329, HQ. 330) và 2 Hải-Vận-Hạm LSM (HQ. 401, HQ402) khởi-hành từ Vũng Tàu ngày 6-11-1956 đi An-Thới, Phú-Quốc.

 

 

Tồng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm đi ngang Tuần-Dương-Hạm USS Los Angeles của HQHK trước khi duyệt-khán các chiến-hạm HQVNCH năm 1956.

 

            Hải-Đội trên đường thao-dượt th́ gặp băo (coup de vent), Tư-Lệnh cho các chiến-hạm được vận-chuyển tự-do, t́m chỗ neo tránh gió. Không may, hai chiến-hạm HQ. 225 và HQ. 111 đứt neo, bị sóng gió đánh dạt lên băi biển An Thới. V́ công-vụ, Trung-Tá Mỹ phải trở về Sài-G̣n. Chỉ-Huy-Trưởng Hải-lực đă thành-công kéo hai chiếc tàu ra khỏi chỗ cạn sau 15 ngày làm việc vất vả. Chiếc Trục-Lôi-Hạm HQ. 111, tuy được kéo ra trước nhưng v́ vỏ bằng cây nên sườn tàu bị méo mó và sau đó phế-thải. C̣n chiếc Trợ-Chiến-Hạm HQ. 225 may mắn hơn, không bị hư-hại bao nhiêu, tự-động chạy về được hải-xưởng Sài-G̣n.[148]

 

Vị-thế Quân-giai của Tư-Lệnh Hải-Quân

            Khi HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ được bổ-nhiệm chỉ-huy HQVN, Ông là Phụ-Tá Hải-Quân dưới quyền của vị Tổng Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa. Hệ-thống quân-giai được tiếp-nối với Tổng-Trưởng Quốc-pḥng và trên nữa là Tổng-Thống, vị Tổng-Tư-Lệnh tối cao của Quân-Đội.

Phụ-Tá Hải-Quân không phải là một thành-phần của Bộ Tổng-Tham-Mưu, mà tất cả các thành-viên đều là Sĩ-Quan Bộ-Binh. Do đó, Hải-Quân có rất ít ảnh-hưởng đến các quyết-định quân-sự quan-trọng ở cấp cao. Vị-thế khiêm-nhường này tiếp-tục qua thời HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn. Vai tṛ nhỏ bé của Hải-Quân (gồm cả Thủy-Quân Lục-Chiến) thể-hiện trên quân-số lúc đó, Hải-Quân chỉ chiếm có 3.4 phần trăm của tổng-số Quân-đội 150,000 người.[149]

 

Chuyến Hải-Tŕnh Thăm-viếng Thiện-chí Đông Nam Á

            Sau khi t́nh-h́nh Miền Nam đă khá ổn-định, Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm cử HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ làm Trưởng phái-đoàn Hải-Quân đi thăm-viếng thiện-chí và cám ơn các nước bạn đồng-minh chống Cộng-Sản trong vùng Đông-Nam-Á như Phi-Luật-Tân, Tân-Gia-Ba, Mă-Lai-Á, Thái-Lan. Phân-Đoàn gồm có 2 Hộ-Tống-Hạm PC và 1 Hải-Vận-Hạm LSM. Lúc ấy, HQ Thiếu-Tá Trần-Văn-Chơn là Chỉ-Huy-Trưởng Phân-Đoàn. HQ Đại-Úy Vương-Hữu-Thiều là Hạm-Trưởng chiếc Hải-Vận-Hạm.

Chuyến hải-tŕnh viễn-du này dài tới một tháng. HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ được đón-tiếp nồng-hậu tại ba hải-cảng Manila, Singapore và Bangkok.[150]

 

 

Cấp-Hiệu Hải-Quân cũng như của Lục-Quân và Không-Quân dă thay đổi nhièu lần. Tài-liệu Trích-dẫn này được ghi là: Phù-hiệu thời Đệ Nhất Cộng-Ḥa (thiếu phần HSQ và Đoàn-Viên Hải-Quân).  

 

Cơ-sở Hải-Quân: các Đoàn-Viên

            Các sách sử Việt-Nam trong quá-khứ thường ghi rất ngắn gọn những biến-cố quan-trọng với các hoạt-động của vua quan ở cấp lớn. Khi đọc những sách đó, người ta khó mà h́nh-dung ra được sự sinh-hoạt của tập-thể lớn nhất của quốc-gia là thường-dân. Cuốn Lược-sử này mô-tả về tổ-chức HQVNCH nên cũng chỉ nói nhiều đến các giới-chức cao-cấp trong và ngoài Hải-Quân. Đó là những người nắm quyền điều-hành, ảnh-hưởng nhiều đến sự chuyển-biến của tổ-chức.[151]            

            Tuy-nhiên cũng đứng trên phương-diện tổ-chức, các đơn-vị Hải-Quân là những tập-thể mà trên dưới hoạt-động nhịp-nhàng liên-kết chặt-chẽ với nhau. Trên con tàu không phải một ḿnh vị Hạm Trưởng làm được mọi việc, mà là sự hợp-lực hài-ḥa, khéo léo của tất cả mọi người. Tàu tách bến mà anh thủy-thủ làm giây không buông giây đúng lúc th́ con tàu làm sao ra được.[152] Hạm-trưởng chỉ có một mà đoàn-viên hàng trăm hay có khi hàng ngàn trên các chiến-hạm lớn, Vả lại, trang sử Hải-chiến nào cũng đẹp v́ t́nh huynh-đệ chi-binh. Cho dù là Đô-Đốc Tư-Lệnh cả Hạm-Đội hay một Thủy-thủ đang bắn súng cũng cùng chung một số-phận như nhau khi hai Hạm Đội giao-chiến. Tàu ch́m, tất-nhiên họ cùng lúc hy-sinh.

Ngoài các giới chức cao cấp như các Sĩ-Quan Hải-Quân đă được đề-cập rất nhiều trong suốt cuốn sách, những trang sau đây đặc-biệt lược-duyệt qua các đường nét huấn-luyện và sự-nghiệp tiến thân của các thành-viên được coi là Hạ-tầng Cơ-sở của tổ-chức. Đó là các Đoàn-Viên Hải-Quân.

 

Thành-phần Hạ tầng của Hải-Quân

            Nói chung, các Đoàn-Viên Hải-Quân có thể phân ra 3 thành-phần như sau là Sĩ-Quan Đoàn-viên[153], Hạ-Sĩ-Quan Chuyên-Nghiệp Hải-Quân và Thủy thủ Hải-Quân.[154]

(1)- Sĩ-Quan Đoàn-viên Chuyên-nghiệp:

Thởi-gian quân-vụ và khả-năng chuyên-nghiệp của các Sĩ-Quan Đoàn-Viên rất cao. Họ là những gạch nối quan-trọng giũa Chỉ-Huy-Trưởng và Đoàn-viên các đơn-vị bờ cũng như chiến-hạm. Họ cũng là những huấn-luyện-viên xuất-sắc của các quân-trường Hải-Quân. Vào thời kỳ bành trướng 1967-1972, v́ thiếu cán-bộ chuyên-môn cao, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân quyết định mở các lớp Sĩ-Quan Đoàn-viên do Hải-Quân huấn-luyện tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc vào năm 1969[155].

Tổng-cộng có 4 khoá, mỗi khoá khoảng 60 người, thời-gian học là 6 tháng. Họ học chuyên-môn rất ít, phần lớn học về tổ-chức đơn-vị và lănh-đạo chỉ-huy. Đến năm 1972 chương-tŕnh này chấm dứt.

            Để được theo học các khoá Sĩ-Quan Đoàn-viên này, ứng-viên phải có những điều-kiện sau đây:

- Cấp Trung Sĩ I, Thượng Sĩ - phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp.

- Cấp Thượng Sĩ nhất, phải có bằng Cao Đẳng Chuyên-Nghiệp hay bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp.

Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, các khoá-sinh tốt-nghiệp mang cấp bậc cao nhất là Đại Uư. Tuy chưa có vị nào trở thành Hạm-Trưởng,[156] nhưng một số đă nắm quyền Thuyền-Trưởng các Duyên-Tốc-Đĩnh

(2) - Hạ-Sĩ-Quan Chuyên-Nghiệp Hải-Quân

Hải-Quân mở hai khoá Hạ-Sĩ-Quan Hải-Quân:

            Khoá thứ nhất có khoảng 200 người, đa-số là ứng-viên thanh-niên học-sinh, và c̣n một số ít là Hạ-Sĩ-Quan về học tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha Trang.

Điều-kiện để theo học các khoá này:

- Ứng-viên tối-thiểu phải có bằng Trung-Học Đệ Nhất Cấp và đầy đủ sức khoẻ để đi biển.

- Học 3 tháng cơ-bản quân-sự tại TTHL/HQ Nha trang.

- Ra trường đi tập-sự với cấp bậc Thủy Thủ Tập-Sự.

- Sau ba tháng trở lại TTHL/HQ Nha-Trang học Sơ Đẳng Chuyên-Nghiệp theo ngành nghề họ chọn.

Sau 3 đến 6 tháng học chuyên-nghiệp họ được cử đi tập-sự tại các đơn-vị Hải-Quân trong 4 tháng và

Sau hết, trở lại quân-trường để thụ-huấn Trung Đẳng Chuyên-Nghiệp, thời-gian từ 3 đến 6 tháng tùy theo ngành nghề và từ đấy sau khi ra trường họ mới chính-thức trở thành Hạ-Sĩ-Quan Hải-Quân. Tổng-cộng thời-gian họ thụ-huấn trong quân-trường là 11 tháng.

Tất cả 2 khoá đă đào-tạo cho HQVNCH trên 400 Hạ-Sĩ-Quan. Và sau đó không mở thêm một lớp nào nưă, mà chỉ huấn-luyện HSQ cho Đoàn-viên Hải-Quân mà thôi

Đa-số các vị HSQ này đều trở về học các khoá Sĩ-Quan Đoàn-Viên tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc.

Cũng trong hai khoá Hạ-Sĩ-Quan này vào năm 1963 – 1964, các khoá-sinh có bằng Tú Tài I được gọi đi học tại Trường Sĩ-Quan Trừ-Bị Thủ-Đức. Sau khi tốt-nghiệp, đa-số họ chọn các quân, binh-chủng khác, chỉ một số nhỏ trở lại phục-vụ Hải-Quân. Do đó HQVN đă mất đi một số cán-bộ ưu-tú về chuyên-môn.

Người có cấp bậc cao nhất của hai khoá này lên tới cấp Thiếu-Tá, làm Chỉ-Huy-Trưởng một đơn-vị.[157]

(3) - Thủy-Thủ

Trong tất cả các quân, binh-chủng QLVNCH, Hải-Quân tuyển chọn thủy-thủ với tiêu-chuẩn văn-hoá khá cao:

            1 - An-ninh lư-lịch rơ-ràng.

            2 - Sức khoẻ tốt.

            3 - Văn hoá: Bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp

Sau khi trúng tuyển vào Hải-Quân, các khoá-sinh phải qua những giai đoạn huấn-luyện sau đây:

- Ba tháng căn-bản quân-sự, ra trường với cấp-bậc Thủy-Thủ Tập-Sự.

- Trở về TTHL/HQ, học Sơ Đẳng Chuyên-Nghiệp từ 3 đến 6 tháng tuỳ theo ngành nghề

            Sau đây là những ngành nghề của thủy-thủ HQVNCH:

1- Cơ-Khí,

2- Điện-Khí,

3- Trọng-Pháo (Điện-Pháo),

4- Bí-Thư,

5- Pḥng-Tai,

6- Vô-Tuyến,

7- Giám-Lộ,

8- Y-Tá,

9- Tiếp-Vụ,

10- Điện-Tử,

11- Quản-Kho (Kế-Toán),

12- Thám-Xuất.

 

Các phù-hiệu chuyên-nghiệp của Đoàn-viên HQVN.

 

            Sau khi được huấn-luyện chuyên-môn, các khoá-sinh măn khoá được đeo phù-hiệu chuyên-nghiệp và cấp-bậc bên tay áo trái và khi trở thành Sĩ-Quan Đoàn-viên th́ không c̣n đeo phù-hiệu chuyên-nghiệp nữa.

            Qua một thời-gian từ hai đến ba năm công-vụ, các khoá-sinh được gửi về học các lớp Hạ-Sĩ-Quan, thời-gian học là 4 tháng tại TTHL/HQ Nha-Trang hoặc TTHL/HQ Cát Lái. Khoảng 1 hoặc 2 năm sau khoá-sinh được gọi về học các lớp Trung Đẳng Chuyên-Nghiệp tại TTHL/HQ Nha Trang.

Muốn trở thành Sĩ-Quan Đoàn Viên, khoá-sinh tốt-nghiệp Trung Đẳng phải qua một lớp Cao-Đẳng Chuyên-Nghiệp và ghi danh theo học Khoá Sĩ-Quan Đoàn-Viên thời-gian học là 6 tháng.       

            Trong năm 1969, khoá 50 tân-binh Hải-Quân đang học tại TTHL/HQ Cam Ranh - được Phái-Bộ Viện-Trợ Quân-Sự Hoa-Kỳ tuyển chọn nửa khoá đi thụ-huấn căn-bản quân-sự tại Hoa-Kỳ do Đại Uư Bùi Nhật Ích hướng-dẫn. Khi trở về đă tŕnh-diễn lối diễn-hành đặc-biệt của Hải-Quân Hoa-Kỳ rất tân-kỳ và đẹp mắt nhưng sau này không áp-dụng cho Hải-Quân Việt-Nam, đó là khoá căn-bản quân-sự duy-nhất được học tại Hoa-Kỳ.

 

 

Đoàn-viên Hải-Quân đi du-học tại Hoa-Kỳ. Có cả một lớp căn-bản quân-sự.

 

Vào những năm 1968-1969, để theo kịp đà chuyển-giao các tàu bè và chiến-cụ tối-tân với kỹ-thuật cao, nhiều Đoàn-Viên được gửi đi tu-nghiệp tại Hoa-Kỳ, tuỳ theo ngành nghề từ 6 tháng đến 1 năm, sau khi đă học 6 tháng Anh-Ngữ tại Trung-Tâm Sinh-Ngữ Quân-Đội. Đa-số các khoá-sinh tu-nghiệp thuộc các chuyên-nghiệp Cơ-Khí, Điện-Khí, Vô-Tuyến, Điện-Tử và Pḥng-Tai và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 một số Sĩ-Quan và Đoàn-viên Hải-Quân đă bị kẹt lại Hoa-Kỳ cho đến nay.[158]


 

 

Chương 3

Giai-đoạn Phát-triển

(1957-1967)

 

            Cho dù gặp những trở-ngại trên bước h́nh-thành, nhiều khó-khăn khi dựng lại cờ Tổ-Quốc trên kỳ-đài chiến-hạm; sau năm 1956, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa (HQVNCH) cũng đă tiến được những bước khởi-hành vững chắc.

 

Năm 1957

            T́nh-h́nh bang-giao Việt-Nam Cambodge căng thẳng dần từ cuối năm 1956. Hải-Quân VNCH gửi 1 Trợ-Chiến-Hạm, 2 Quân-Vận-Đĩnh và 4 Giang-Vận-Hạm chuyên-chở 2, 400 Việt-kiều bị chính-phủ Cambodge trục-xuất hồi-hương về Việt-Nam vào tháng 2 năm 1957.

            Cuối tháng 4, 4 Hải-Vận-Hạm cùng 3 Giang-Pháo-Hạm hoàn-tất việc chuyển-vận 1,500 đồng-bào từ Đà-Nẵng đến Cát-Lái trên đường đi Phước-Long định-cư.

            Tháng 5, các Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp cuối cùng rời Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha Trang[159], giao hoàn-toàn trọng-trách huấn-luyện lại cho Hải-Quân Việt-Nam.

Khóa 7 được đặt tên Đệ Nhất Thiên-Xứng đó là cḥm sao số 7 của Hoàng-Đạo. Các khóa kế tiếp cứ thế mà tính theo ṿng thứ-tự 12 con giáp như trên. Khóa 8 là Đệ Nhất Hổ-Cáp, khóa 9 là Đệ Nhất Nhân-Mă và tiếp-tục cho đến Đệ Nhất Song-Ngự Tiếp-theo là Đệ Nhị, Đệ Tam. v.v.. .[160]

            Hải-Quân Việt-Nam nhận thêm nhiều Modified Landing Craft (loại tiểu-đĩnh có khả-năng chạy trên sông và trên ruộng lúp xúp nước), 2 Quân-Vận-Đĩnh (LCM), 2 Hộ-Tống-Hạm (PC - Patrol Craft) và 3 Trục-Lôi-Hạm YMS (Yard Minesweeper).

            Hầu hết các giang-đĩnh và chiến-hạm này đều do Hoa-Kỳ viện-trợ cho Pháp trong thời-kỳ chiến-tranh Đông-Dương và nay Pháp giao lại cho Việt-Nam. Khi chuyển-giao các chiến-hạm và chiến-đĩnh đó lại cho Hải-Quân Việt-Nam. Một vài nhân-viên Hải-Quân Pháp quá-khích đă phá-hoại bằng cách bỏ cát trong dầu chạy máy hoặc nhận bùn vào các ống dẫn dầu khiến một số chiến-cụ bị hư. Một số tàu thuyền khác v́ t́nh-trạng thiếu bảo-tŕ, HQVN chỉ sử-dụng được một thời-gian ngắn rồi đành phế-thải.

            Năm 1957 là thời-gian Hải-Quân tăng-trưởng, toàn-thể Hải-Quân có 4,800 người. Đặc-biệt Giang-Lực tăng 50 phần trăm.[161]

            Các Quân-y-sĩ hiện-dịch lần lượt trở về và đă được Y-sĩ Thiếu-Tá Phạm Tấn Tước bổ-nhiệm vào phục-vụ ở Bệnh-xá Bạch Đằng, Bệnh-xá Hải-Quân Công-Xưởng, Căn-cứ Cát Lái, Bệnh-xá Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha Trang. Riêng Bác-sĩ Nguyển Phúc Quế được chỉ-định làm Y-Sĩ-Trưởng Thủy-Quân Lục-Chiến và cùng với Đại-Úy Lê-Nguyên-Khang tiếp-nhận căn-cứ Cam Ranh. Bệnh-xá đầu-tiên của TQLC được Bác-Sĩ Quế thành-lập ở B́nh Ba, Cam Ranh.[162]

            HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn thay thế HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ trong chức-vụ Tư-lệnh Hải-Quân.

Sau khi khóa 7 măn-khóa, để có thời-gian chuẩn-bị cho một chương-tŕnh huấn-luyện hoàn-toàn Việt-Nam, Trung-Tâm không nhận ngay Sinh-Viên. Một số Sĩ-Quan ưu-tú được gọi về chuẩn-bị làm huấn-luyện-viên[163], đă hoàn-thành việc soạn-thảo chương-tŕnh học-tập cho các khóa Hải-Quân sau này.

            Cuối năm 1957, Hải-Quân gửi chiến-hạm, Thủy-Quân Lục-Chiến cùng quân bạn tham-dự Chiến-dịch Hồng-Nhạn tại vịnh Thái Lan. Các Sĩ-Quan Khóa 7 thực-tập lần cuối trên các chiến-hạm thuộc Chiến-dịch này, trước khi họ chính-thức được bổ-nhiệm đi các đơn-vị.[164] 

           

Cách đặt tên Các Khóa Sĩ-Quan Hải-Quân theo Cḥm Sao

Như đoạn trên đă đề-cập, Khóa 7 được đặt tên là Đệ Nhất Thiên-Xứng theo tên cḥm sao số 7 trên Hoàng-Đạo. Các khóa đàn anh của Khóa 7 tại TTHL/HQ/Nha-Trang đương-nhiên được mang những tên như sau:

Khóa 1- Đệ Nhất Dương-Cưu

Khóa 2- Đệ Nhất Kim-Ngưu

Khóa 3- Đệ Nhất Song-Nam

Khóa 4- Đệ Nhất Bắc-Giải

Khóa 5- Đệ Nhất Hải-Sư

Khóa 6- Đệ Nhất Xử-Nữ.

 

 

Mười hai chùm sao trên Hoàng-Đạo.

 

Sau đây là một vài chi-tiết bổ-túc vè danh xưng các cḥm sao này:

            Mặt Trời di-chuyển giáp một ṿng biểu-kiến trên Hoàng-Đạo (Ecliptic) trong thời-gian một năm chừng 365 ngày 1/4, đi ngang qua 12 cḥm sao. Các cḥm sao này tương-tự như 12 con giáp (Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) của khoa chiêm-tinh-học Đông-Phương. Nếu tính từ điểm xuân-phân (21 tháng 3), các cḥm sao được gọi tên theo các tiếng Việt, Anh, Pháp như sau:

Số 1- Dương-Cưu (Bélier hay Aries); từ 21 tháng 03 đến 20 tháng 04.

Số 2- Kim-Ngưu (Taureau hay Taurus); từ 21 tháng 04 đến 20 tháng 05.

Số 3- Song-Nam (Gémeaux hay Gemini); từ 21 tháng 05 đến 21 tháng 06.

Số 4- Bắc-Giải (Cancer): từ 22 tháng 06 đến 22 tháng 07.

Số 5- Hải-Sư (Lion hay Leo): từ 23 tháng 07 đến 23 tháng 08.

Số 6- Xử-Nữ (Vierge hay Vergo): từ 24 tháng 08 đến 22 tháng 09.

Số 7- Thiên-Xứng (Balance hay Libra); từ 23 tháng 09 đến 23 tháng 10.

Số 8- Hổ-Cáp (Scorpion hay Scorpius); từ 24 tháng 10 đến 22 tháng 11.

Số 9- Nhân-Mă (Sagittaire hay Sagittarius); từ 23 tháng 11 đến 21 tháng 12.

Số10-Nam-Dương (Capricorne hay Capricornus):Từ 22 tháng 12 đến 20 tháng 01.

Số 11- Bảo-B́nh (Verseau hay Aquarius); từ 21 tháng 01 đến 19 tháng 02.

Số 12- Song-Ngư (Poissons hay Pisces); từ 20 tháng 02 đến 20 tháng 03.

 

Chương-Tŕnh Huấn-Luyện Sĩ-Quan

Kể từ năm 1957, Chương-Tŕnh Huấn-Luyện Sĩ-Quan HQVN được tiêu-chuẩn-hóa như sau:

a - Ngành Chỉ-Huy: Mặc dù thời-gian học tại quân-trường là 2 năm, 18 tháng hay một năm th́ các môn học chính vẫn như nhau. Học-tŕnh chỉ có rút ngắn cho thích-hợp với thời-gian.

- Giai-Đoạn 1: Sinh-Viên Sĩ-Quan từ cầu vai đen đến Chuẩn-Uư, phải hoàn-tất các môn học như toán-học đại-cương, lượng-giác h́nh-học phẳng và lượng-giác không-gian (lượng giác cầu). Vận-Chuyển thực-tập và lư-thuyết nhập-môn. Điện-Từ-Trường, Điện-Kỹ-Nghệ cấp 1, Anh-Văn và các môn phụ. Căn-bản quân-sự, tháo ráp vũ-khí nhẹ và thực-hành tác-xạ.

- Giai-Đoạn 2: Sinh-Viên chuẩn-bị tốt-nghiệp Thiếu-Uư gồm có các môn chính trong Hải-Nghiệp như Vận-Chuyển lư-thuyết, Hàng-Hải Thiên-Văn, Sức-bền Vật-Liệu, lư-thuyết Thuyền-Bè tầu nổi và tầu ngầm. Cơ-Khí Động-Cơ Nổ 2 th́ và 4 th́. Điện-Kỹ-Nghệ cấp 2, Vận-Chuyển Chiến-Thuật, Anh-Văn và các môn phụ.

b - Ngành Cơ-Khí: Có các môn chính như sau: Động-Cơ-Nổ 2 th́ và 4 th́. Động-Cơ Diesel, Điện-Kỹ-Nghệ, Pḥng-Tai, Sức-Bền Vật-Liệu, Lư-Thuyết Thuyền-Bè áp-dụng cho tầu nổi và tầu ngầm. Chú-trọng nhiều về nguyên-tắc và thực-hành các loại động-cơ. Các môn phụ tương-tự như các môn phụ của ngành Chỉ-Huy như căn-bản quân-sự, tháo ráp vũ-khí nhẹ, thực-hành tác-xạ...

 

Năm 1958

- Chiến-dịch Hồng-Nhạn tại Phú-Quốc tiếp-diễn.

- Trong kế-hoạch di-tản đồng-bào đi lập ấp mới, các chiến-hạm chiến-đĩnh chuyển-vận đă chuyên-chở đồng-bào từ Ba-Nam về U-Minh, Cái Sắn.

            - Khóa Sĩ-Quan Hải-Quân đầu-tiên được tuyển-mộ và huấn-luyện bởi chính Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam: Khóa 8 Hổ Cáp. Danh-hiệu Sĩ-Quan Tàu Ngầm đă xuất-hiện khi các SVSQ Khóa 8 lần đầu-tiên mang cầu vai đen, không cấp-bậc, trong giai-đoạn sơ-khởi 3 tháng đầu-tiên.

            - Các nhà quân-sử VNCH thường cho rằng những năm 1957-1958 là thời-gian tương-đối thanh-b́nh ở miền Nam Việt-Nam. Tuy vậy, riêng Hải-Quân ghi-nhận một biến-chuyển lớn: Tiểu-Đoàn 1 Thủy-Quân Lục-chiến, trong khi hành-quân có Hải-Đoàn Xung-phong yểm-trợ tại An-Xuyên là vùng cực Nam của VNCH, đă đụng quân Cộng-Sản.[165] Biến-cố này chứng-tỏ dă-tâm của Bắc-Việt khởi-sự xâm-lăng Miền Nam từ năm 1958, tức là chỉ 4 năm sau khi chúng kư-kết hiệp-ước đ́nh-chiến Genève.[166].

 

Biến-cố Hoàng-Sa

Trong khi t́nh-h́nh trong nội-địa VNCH cho tới những năm 1958, 1959 c̣n tương-đối lắng dịu th́ ngoài Biển Đông đă xảy ra mấy biến-cố quan-trọng. Trước hết vào đêm 20 rạng 21 tháng 2 năm 1956, Trung-Cộng bất-thần gửi Hồng-Quân đổ-bộ và chiếm đóng đảo Phú-Lâm (Woody Island). Phú-Lâm thuộc nhóm đảo An-Vĩnh là ḥn đảo lớn nhất trong quần-đảo Hoàng-Sa, cách đảo Hoàng-Sa (Pattle Island, thuộc nhóm đảoTrăng Khuyết) là nơi có quân trú-pḥng Việt-Nam, 50 hải-lư. Trong mùa Xuân năm 1956, 200 Hồng-Quân Trung-Hoa xây cất xong 11 doanh-trại trên Phú-Lâm.[167]

Vào ngày 9 tháng 6 năm 1956, quân-nhân Việt-Pháp cùng nhân-viên đài Khí-tượng tại đảo Hoàng-Sa báo-cáo thấy 200 "lính" dân-quân Trung-Cộng đổ-bộ lên đảo Robert (đảo Hữu-Nhật). Việt-Nam phản-ứng ngay bằng cách điều-động một Hộ-Tống-Hạm, một Hải-Vận-Hạm và hai Giang-Pháo-Hạm ra ngay Hoàng-Sa[168]. Không có súng nổ và Việt-Nam tái-chiếm lại Hữu-Nhật khi Trung-Cộng âm-thầm rút lui.

Vào tháng 2 năm 1959, Trung-Cộng lại âm-mưu một kế-hoạch tầm ăn dâu khác. Trước hết, một số ngư-phủ được gửi tới đánh cá gần quần-đảo của ta. Thấy không có quân trú-pḥng trên đảo Quang-Ḥa (Duncan Island), đám ngư-phủ này chiếm luôn đảo đó. Trợ-Chiến-Hạm Nỏ-Thần HQ. 225 được lệnh đến nơi điều-tra. Sau đó, thêm 5 chiến-hạm nữa chuyên-chở theo một Đại-đội TQLC tới tăng-cường. TQLC đổ-bộ lên đảo bắt giữ 31 ngư-phủ Trung-Cộng[169]. Tàu Hải-Quân mang họ về Đà-Nẵng. Trung-Cộng phản-đối dữ-dội, nhưng Việt-Nam quyết-tâm bảo-vệ chủ-quyền quốc-gia. Số ngư-phủ bị câu-lưu gần 2 tháng rồi được trả về Hồng-Kông để hồi-hương.

 

Trợ-Chiến-Hạm Nỏ-Thần HQ. 225 được lệnh ra Hoảng-Sa để điều-tra. Chiến-Hạm này được trang-bị 6 đại-bác 40 ly.

           

Năm 1959

            Ngoài biến-cố lớn ngoài biển Hoàng-Sa vừa kể ở trên, những biến-cố khác cần nhắc đến như sau:

Lực-Lượng Hải-Thuyền được thành-lập để hoạt-động trong các đội Hải-Thuyền rải rác suốt dọc duyên-hải Việt-Nam. Theo quan-niệm ban đầu, Lực-Lượng này được trang-bị bằng nhân-viên bán quân-sự, tuyển-mộ trong số thanh-niên ngư-phủ tại địa-phương. V́ là người địa-phương, những nhân-viên này hoạt-động rất dễ dàng. Một khi có địch-quân xâm-nhập, Hải-Thuyền sẽ nhận biết ngay. Việc chọn người gặp khó-khăn v́ không đủ ứng-viên địa-phương theo tiêu-chuẩn. Sau này, các di-dân miền Bắc có kinh-nghiệm đi biển đánh cá được tuyển-dụng để chiếm vào chỗ thiếu hụt đó.

 

 

Hải-Thuyền có thể sản-xuất hàng loạt với các vật-liệu địa-phương.

 

Ngày 6-8-1959, HQ Thiếu-Tá Hồ-Tấn-Quyền[170], Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân; được thăng-cấp Trung-Tá để thay thế HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn[171] (hết nhiệm-kỳ 2 năm), làm Tư-Lệnh Hải-Quân.[172]

Cũng như lần chỉ-định Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ bị Pháp cản-trở, lần này người Hoa-kỳ lại mong đợi HQ Thiếu-Tá Lâm-Nguơn-Tánh đảm-nhiệm chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.[173] Cả hai lần, Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm đều giữ nguyên quyết-định của Ông, không xét đến ư-kiến người ngoại-quốc.

 

HQ Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền, Q.TL/HQVN lên thăm Tuần-Dương-Hạm USS Toledo tại Bến Bạch-Đằng.

Bộ Chỉ-Huy Hải-Trấn được chính-thức thành-lập.[174]

Hải-Trấn là một đại-đơn-vị hết sức lớn. Nếu không tính TQLC, số lượng quân-nhân và dân-chính dưới quyền Bộ Chỉ-Huy Hải-Trấn chiếm đến một nửa quân-số Hải-Quân. Hải-Trấn gồm có nhiều cơ-quan đầu năo và các đơn-vị bờ như sau:

- Bốn Duyên-khu. Bộ Chỉ-Huy của mỗi Duyên-khu đặt tại Phú Quốc, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Nẵng.

- Trung-tâm Huấn-luyện HQ Nha Trang.

- Hải-Quân Công-Xưởng

- Các Thủy-xưởng Cần Thơ. Đà Nẵng.

- Trung-tâm Tiếp-liệu.

            Hải-Lực lần lượt nhận thêm ba Trục-Lôi-Hạm (MSC)[175]: HQ. 114 Hàm Tử II[176], HQ. 115 Chương Dương II[177], HQ. 116 Bạch Đằng II[178]. Thời-gian này, Hải-Quân Việt-Nam có tất cả 119 chiến-hạm và chiến-đĩnh các loại.

            Từ trước đến giờ, các chiến-hạm của Hải-Quân Việt-Nam đến hạn đại-kỳ đều phải đi qua nhờ vả Hải-Xưởng Hoa-Kỳ tại Subic, Phi-Luật-Tân. Vào năm 1958 khi khả-năng kỹ-thuật gia-tăng, Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n bắt đầu đảm-nhiệm mọi công-tác sửa chữa quan-trọng cho chiến-hạm.[179]

            Nhiều Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan được gởi sang Hoa-Kỳ học-tập chuyên-nghiệp. Các Sĩ-Quan cao-cấp tu-nghiệp tại Naval War College ở Newport, Rhode Island. Vị Sĩ-Quan đầu-tiên theo học tại Naval War College tức trường Cao-đẳng Hải-chiến[180] là Hải-Quân Trung-Tá Trần-Văn-Chơn. Một số Sĩ-Quan trung-cấp tu-nghiệp tại Naval Postgraduate School ở Monterey, California.

            Cũng trong năm 1959, HQ. 329 cùng một số chiến-hạm khác của Hải-lực được lệnh túc-trực tại Hoàng-Sa. Các chiến-hạm này luân-phiên nhau mỗi hai tháng để ngăn-chặn các ghe chài Trung Cộng xâm-nhập quần-đảo này.

 

Tầm Quan-trọng của Giang-Lực

            Có thể nói Hải-Quân Việt-Nam nhắm vào hai nhiệm-vụ: bảo-vệ quốc-gia chống ngoại-xâm và duy-tŕ an-ninh nội-địa. V́ mục-tiêu thứ nhất có ưu-tiên hàng đầu trước năm 1959, Giang-Lực hoạt-động đa-số trong các sông ng̣i nội địa, không được coi là quan-trọng. Như một Tuỳ-Viên Hải-Quân Hoa-Kỳ đă giải thích vào năm 1959: "Giang-Lực đóng một vai tṛ phụ thuộc so với Hải-Lực", v́ Hải-Lực tuần-tiễu dọc duyên-hải và ngoài khơi. Tuy nhiên với sự gia-tăng hoạt-động của Cộng-Sản trong nội-địa vào những năm 1959 và 1960, các Sĩ-Quan Việt-Nam và Hoa-Kỳ đă chú-ư nhiều hơn đến việc cải-tiến Giang Lực.

Hoạt-động của Cộng-quân được tập-trung vào vùng châu-thổ sông Cửu Long. Đây là vùng đông dân-cư nhất của Việt-Nam. Vào giưă năm 1959, Tổng-thống Ngô Đ́nh Diệm mô-tả các tỉnh miền nam như đang "ở trong t́nh-trạng bị bao-vây". Phái-bộ Cố-vấn đồng-ư với chính-phủ Việt-Nam khi kết-luận rằng t́nh-trạng ở vùng đồng-bằng sông Cửu Long đă trầm-trọng hơn t́nh-trạng của các năm 1954 hay 1955. Một điều hiển-nhiên là Giang-Lực trong khi tuần-tiễu sông ng̣i, chuyên-chở binh-sĩ và đồ tiếp-liệu; đă đóng một vai tṛ quan-trọng trong việc tái duy-tŕ an-ninh cho khu-vực châu-thổ. V́ có rất ít đường xá, trên 1,500 dặm sông ng̣i là một hệ thống thủy-lộ quan-trọng cho việc thương mại và giao-thông

 

Tổ-Chức và Hoạt-Động của Giang-Lực vào năm 1959

            V́ hầu-hết hoạt-động giang-lực nằm trong Miền Tây Nam-phần, Bộ Chỉ-Huy Giang-Lực di-chuyển từ Sài-G̣n về Cần-thơ. Giang-lực có một tổng-số là 96 Giang-đĩnh, tổ-chức thành 5 Hải-Đoàn Xung-Phong[181] Mỗi Hải-Đoàn có chừng 2 Sĩ-Quan và 100 Đoàn-Viên, đồn-trú tại Mỹ-Tho, Cần-Thơ, Vĩnh-Long, Long-Xuyên và Sài-G̣n.

            Các Hải-Đoàn luân-chuyển hành-quân một tháng rồi huấn-luyện một tháng. Trong thời kỳ huấn-luyện, một Toán Huấn-luyện Lưu-Động gồm sáu Sĩ-Quan và Đoàn-Viên từ Sài-G̣n tới để giảng dậy lư thuyết và các kỹ-thuật đặc-biệt. Thời-gian c̣n lại của thời kỳ huấn-luyện được dành cho việc sưả chưă chiến-đĩnh.

Mỗi Hải-Đoàn có 19 tiểu-đĩnh, đa-số là các tàu đổ-bộ của Hoa-Kỳ thời thế chiến thứ hai được biến cải. Trong mỗi Hải-Đoàn, một chiếc LCM-6 Commandement, cửa mũi được thay thế bằng một mũi nhọn, dùng làm Soái-đĩnh. Tàu này cung-cấp các phương-tiện truyền-tin và yểm-trợ hải pháo trong khi hành-quân. Hải-Đoàn c̣n có một chiếc Tiền-Phong-Đĩnh (hay Thiết-giáp-đĩnh Monitor). Cũng cải-biến hơi giống như chiếc Soái-đĩnh Commandement nhưng hoả-lực Monitor hùng hậu hơn. Vũ-khí trang-bị gồm có một đại bác 40 ly, hai đại bác 20 lỵ, một đại liên 50, và một súng cối 81 ly. Các binh-sĩ và đồ tiếp-liệu được chuyên-chở trên 5 chiếc LCM và 12 LCVP và STCAN. Trong những chiến-đĩnh được Hải-Quân Pháp trao lại, chỉ có loại STCAN là vận-chuyển mau lẹ nhất. Đây là loại tàu được đóng riêng cho hoạt-động sông.

 

 

Tiền-Phong-Đĩnh (hay Thiết-Giáp-Đĩnh) có hỏa-lực rất hùng-hậu.

 

Khu-vực hoạt-động chính của Giang-Lực là châu-thổ sông Cửu Long. Ở đây, các Hải-Đoàn và 4 Tiểu Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến t́m kiếm truy-lùng địch-quân.

Vào năm 1959, 6 LCM, 4 LCVP cùng 2 vedette và nhiều đơn-vị Thủy-Quân Lục-Chiến đă thực-hiện các cuộc hành-quân trong tỉnh An xuyên. Hai chiếc LCM và 2 LCVP khác tuần-tiễu ranh giới Cam Bốt gần Châu Đốc. Trong khi đó, 1 LCM và 2 LCVP hoạt-động ở sông Đồng Nai và khu-vực Rừng Sát gần Sài-G̣n..Đồng-thời 2 LCVP tuần-tiễu gần một kho nhiên-liệu của Bộ-Binh ở phiá Bắc Sài-G̣n.

Mặc dầu vào năm 1960, TQLC vừa được bổ nhiệm vào Lực-Lượng Chiến-lược Trừ-bị cùng với Nhẩy Dù, các Tiểu Đoàn TQLC vẫn tiếp-tục hoạt-động với Hải-Quân. Ngoài ra, Giang-Lực c̣n thực-hiện nhiều cuộc hành-quân hỗn-hợp với Bộ Binh.[182]

 

 

 

Cũng như FOM/STCAN, Vedette VP[183] (Vedette de Port - Harbour Defence Motor Launch - HDML) là loại chiễn-đĩnh rất hữu-hiệu trong sông. VP lại c̣n có khả-năng tuần-duyên.

 

Tài-liệu Căn-Bản về Tổ-Chức.

Trước đây, hầu hết các tài-liệu về tổ-chức và điều-hành tổng-quát cho Quân-đội cũng như các Quân, Binh-chủng Việt-Nam Cộng-Ḥa đều do văn-pḥng hay pḥng sở thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH soạn-thảo và ban-hành.

Về phần Hải-Quân khi HQ Thiếu-Tá Mỹ làm Tư-Lệnh, HQ Trung-Úy Nguyễn-Văn-Ánh được chỉ-định làm Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân (TMT/HQ). Ông Ánh nắm giữ chức-vụ này nhiều năm qua nhiều vị Tư-Lệnh, đă điều-hành Bộ Tham-Mưu của Ông soạn-thảo những tài-liệu quan-trọng đầu-tiên.

Tập Văn-thư Căn-bản phải được kể là quan-trọng nhất. Đó là nơi tập-trung tất cả những huấn-thị điều-hành các đơn-vị Hải-Quân. Trong tập văn-thư đó, các văn-thư được sắp-xếp rất thứ-tự theo từng loại hoạt-đông và theo thời-gian nên rất dễ t́m kiếm. Tập Văn-Thư Căn-Bản được Bộ Tham-mưu Hải-Quân nhật-tu thường-xuyên. Các Đơn-Vị-Trưởng và Quân-nhân các cấp căn-cứ theo đó để thi-hành hầu hoàn-tất những nhiệm-vụ giao-phó.

Ngày 10 tháng 9 năm 1959, cuốn sách quy-luật Hải-Quân đầu-tiên, mang tên Hải-Quy[184] được Bộ Tư-Lệnh HQVN ban-hành. Tập tài-liệu quan-trọng này ấn-định quy-chế hoạt-động tổng-quát cho các đơn-vị và quân-nhân Hải-Quân. Truyền-thống cao-quư của người lính thủy được đề-cập đến rất nhiều. Đặc-biệt vai tṛ dẫn-lộ chiến-hạm và chỉ-huy các đơn-vị sông biển của các Hạm-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng được quy-định rất rơ-ràng.

 

Tổ-chức Tham-mưu của Bộ Tư-Lệnh HQVNCH.

Lúc mới thành-lập, ban tham-mưu của Tư-lệnh Hải-Quân (cũng là Phụ-Tá HQ cạnh TTMT/QĐQGVN) chỉ là một pḥng văn-thư nhỏ bé trong khuôn-viên của Bộ Tổng-Tham-Mưu. Pḥng này lớn dần, di-chuyển về trại Cửu-Long Thị-Nghè, rồi về trại Bạch-Đằng tức là Caserne Francis Garnier ở bến Bạch-Đằng (bờ Sông Sài-G̣n) khi căn-cứ này được Hải-Quân Pháp bàn-giao.

Sơ-đồ tổ-chức tổng-quát của Bộ Tham-mưu Hải-Quân:

Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân nhận lệnh trực-tiếp từ Tư-Lệnh Hải-Quân, điều-hành 4 pḥng:

- Pḥng 1 -Nhân-Viên

- Pḥng 2 -T́nh-Báo[185]

- Pḥng 3 -Hành-Quân

- Pḥng 4 -Tiếp-Vận[186]

Mỗi pḥng điều-hành bởi Trưởng Pḥng. Pḥng lại chia ra nhiều ban do các Trưởng Ban nắm giữ.

 

 

 

Sơ-đồ Tổ-Chức Hải-Quân từ Năm 1969-1963

 

            Ngoài HQ Trung-Úy Nguyễn-Văn-Ánh[187], những Sĩ-Quan sau đây từng nắm giữ chức-vụ TMT/HQ:

- HQ Thiếu-Tá Hồ-Tấn-Quyền

- HQ Thiếu-Tá Nguyễn-Đức-Vân.

- HQ Thiếu-Tá Đặng Cao Thăng, thăng-cấp Trung-Tá trong chức-vụ.

- HQ Trung-Tá Lâm-Nguơn-Tánh, sau đó làm Tư-Lệnh-Phó (thăng-cấp Đại-Tá trong chức-vụ)

- HQ Trung-Tá Trần-Văn-Phấn, thăng-cấp Đại-Tá trong chức-vụ, sau đó nắm quyền Tư-Lệnh Hải-Quân một thời-gian ngắn.

- HQ Trung-Tá Diệp-Quang-Thủy, thăng-cấp Đại-Tá rồi Phó Đề-Đốc trong chức-vụ Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân cho tới ngày 30-4-1975.

 

Danh-hiệu các Chiến-hạm vào đầu thập-niên 1960

            Tuy Giang-Vận-Hạm và Giang-Pháo-Hạm là các loại chiến-hạm đầu-tiên được trao cho các Hạm-Trưởng Việt-Nam chỉ-huy nhưng trong mấy năm đầu của HQVN, cả hai loại Chiến-hạm này chỉ có số vỏ tàu mà không có tên.

Các Trục-Lôi-Hạm YMS được chỉ-định cả số lẫn tên ngay từ ngày 11-2-1954 khi gia-nhập Hải-Quân Việt-Nam.

Năm 1957, Các Trợ-Chiến-Hạm LSSL và Giang-Pháo-Hạm LSIL được đặt tên của các vũ-khí thời cổ: Nỏ-Thần, Linh-Kiếm; Long-Đao, Thần-Tiễn, Thiên-Kích, Lôi-Công, Tầm-Sét.

Các Giang-Vận-Hạm LCU không bao giờ được đặt tên.

Các Hộ-Tống-Hạm PC, PCE, Trục-Lôi-Hạm YMS và MSC được đặt tên của các trận đánh nổi tiếng trong lịch-sử chống quân xâm-lăng Trung-Hoa: Tụy-Động, Vân-Đồn, Đống-Đa, Ngọc-Hồi, Vạn-Kiếp, Chi-Lăng, Kỳ-Ḥa, Nhựt-Tảo, Chí-Linh, Hà-Hồi; Hàm-Tử, Chương-Dương, Bạch-Đằng.

Các Hải-Vận-Hạm LSM[188] và Lương-Vận-Hạm AKL được đặt tên của các con sông: Hát-Giang, Hàn-Giang, Lam-Giang, Ninh-Giang, Hương-Giang, Tiền-Giang, Hậu-Giang, Hóa-Giang.

Các Dương-Vận-Hạm LST được đặt tên của các cửa bể và hải-cảng: Cam-Ranh, Đà-Nẵng, Thi-Nại, Vũng-Tàu, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Mỹ-Tho, Cần-Thơ, Vĩnh-Long.

Các Tuần-Duyên-Hạm PGM được đặt tên của các ḥn đảo Việt-Nam: Phú-Dự, Tiên-Mới, Minh-Hoa, Kiến-Vàng, Kèo-Ngựa, Kim-Quy, Mây-Rút, Nam-Du, Hoa-Lư, Tổ-Yến, Định-Hải, Trường-Sa, Thái-B́nh, Thị-Tứ, Song-Tử, Tây-Sa, Hoàng-Sa, Phú-Quư, Ḥn-Tróc, Thổ-Châu.

 

            Năm 1960

            - Thêm bốn mươi Sĩ-Quan và sáu mươi Hạ-Sĩ-Quan được gởi sang Hoa-Kỳ tu-nghiệp.

            - Hải-Quân Việt-Nam cũng gởi một toán quân-nhân t́nh-nguyện sang Đài-Loan thụ-huấn về phá-hoại dưới nước[189] UDT (Underwater Demolition Teams). Măn khoá học, họ trở thành những Biệt-hải đầu-tiên của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa.

            - Ngày 2 tháng 4, 45 tân Sĩ-Quan Hải-Quân khóa VIII Hổ-Cáp ra trường.

            Cũng trong năm này, Lực-Lượng Hải-Thuyền thực-sự hoạt-động tại duyên-khu 1.

            - Tháng 7, khóa đầu-tiên với 400 Đoàn-viên Hải-Thuyền được tuyển-mộ và huấn-luyện tại Đà Nẵng, dưới sự chỉ-huy của Hải-Quân Trung-Uư Nguyễn-Văn-Thông.

            - Tháng 12, bốn Duyên-Đoàn (ĐD hay ZĐ) đầu-tiên được thành-lập và đóng tại Cửa Việt, Cửa Thuận-An, Đà Nẵng và Hội An.

            Thời-gian này, Lực-Lượng Giang-Cảnh cũng được thành-lập.[190]

 

 

Huy-Hiệu Lực-Lượng Giang-Cảnh

 

Hải-Quân Trung-Tá Chung-Tấn-Cang là vị Sĩ-Quan thứ hai được tu-nghiệp tại Naval War College. Từ năm này trở về sau, mỗi năm, một Sĩ-Quan cao-cấp Hải-Quân theo học tại Đại-học Quân-sự này.

            Hải-Quân nhận 1 PC (Patrol Craft), Hộ-Tống-Hạm Vân Đồn HQ. 06[191]. Chiến-hạm này thay thế cho một chiếc đồng-loại quá cũ, được phế-thải từ trước.

            Khả-năng kỹ-thuật của Hải-Quân Công-Xưởng (HQCX) Sài-G̣n tiếp-tục gia-tăng. Vào đầu thập-niên 1960, HQCX này là cơ-sở kỹ-nghệ lớn nhất của Việt-Nam Cộng-Ḥa.[192]

           

Thành-lập Đoàn Giang-Vận

Năm 1960, Cộng-Sản Hà Nội quấy-phá khắp nơi. Nhiều đoạn đường sông bị chúng chận lại lấy thuế, tịch-thu tài-sản dân-chúng, bắt bớ người Quốc-gia di-chuyển bằng tàu thuyền. V́ nhu-cầu hộ-tống những đoàn Giang-Vận trong sông, một Hải-Đoàn được thành-lập, mang tên Hải-Đoàn 81 Hộ-tống. Hải-Đoàn này gồm có một Soái-Đĩnh, 2 Tiền-Phong-Đĩnh, 12 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP, 12 Tiểu-Giáp-Đĩnh FOM, có nhiệm-vụ giữ an-ninh các đoàn ghe chở vật liệu như xi măng, dầu xăngvà các nhu-yếu-phẩm khác từ Sài-G̣n về Lục Tỉnh; và ngược lại chở lúa gạo, than củi, cá khô... từ Lục Tỉnh tiếp-tế cho Sài-G̣n.

Là một đơn-vị Hải-Quân quản-trị bởi Hải-Quân, nhưng việc sử-dụng lại trực-thuộc ở mộy Ủy-ban Liên Bộ: Bộ Quốc-Pḥng (đại-diện là Bộ Tổng-Tham-Mưu), Bộ Công-Chánh, Bộ Kinh-Tế và Bộ Giao-Thông Vận-Tải. Thường mỗi tháng Liên-Bộ họp tại Bộ Công-Chánh để ấn-định ngày đi về của 4 đoàn công-voa[193]181 trong tháng tới. Đầu tháng là hai đoàn chánh, xen kẽ là hai toán phụ đi vào giữa tháng. Mỗi chuyến đi và về một chiều mất 18 ngày.

Một cách cụ-thể, đoàn công-voa chở nhiên-liệu đến Cần Thơ thuộc các công-ty Xufa, Shell, Caltex... và các ghe chở nhu yếu phẩm như xi măng, phân bón để cung-cấp cho vùng Lục Tỉnh. Khi đoàn ghe đến Long-Xuyên th́ có các ghe đá tháp-tùng để đi tới Sóc Trăng, Bạc Liêu và đây là điểm chót. Lúc về từ Sóc Trăng về Sài-G̣n, đa-số chở gạọ Trung b́nh mỗi ghe có trọng-tải là 300 tấn, mỗi đoàn trung-b́nh có 45 ghe. Như thế, mỗi chuyến đi về, một đoàn công-voa đă cung-cấp cho thủ-đô 13,500 tấn thực phẩm và ngược lại cũng ngần ấy tấn nhiên-liệu, và các vật-dụng khác từ thủ-đô cung-cấp cho Lục Tỉnh. Kể cả đi và về, và cả 4 đoàn, mỗi tháng đoàn Giang-vận, dưới sự hướng-dẫn và bảo-vệ của các chiến-đĩnh Hải-Quân, đă cung-ứng một số lượng tiếp-liệu là khoảng 100,000 tấn.(13,500x 2 x 4= 108,000 tấn). Nếu sông Ḷng Tào, dưới sự bảo-vệ của Hải-Quân đă khiến các tầu bè ra vào cặp bến Sài-G̣n an-toàn, Giang-Đoàn 81 Hộ-tống đă âm-thầm đem lại những nhu-cầu căn-bản cho đồng-bào thủ-đô và cả vựa lúa vùng Lục Tỉnh.[194]

 

 

Đoàn Giang-Vận đi ngang Kinh Chợ-Gạo

 

Năm 1961

            Vào tháng 5 năm 1961, Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền đề-nghị cho gửi thêm Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam được du-học tại 5 quốc-gia Âu-Châu, tại Nhật-Bản, Canada và Úc-Đại-Lợi - ngoài các lớp du-học tại Hoa-Kỳ. Vị Tư-Lệnh này cho biết rằng sự huấn-luyện tại Hoa-Kỳ chỉ là căn-bản, Ông ước mong là kiến-thức của Sĩ-Quan Hải-Quân phải được rộng răi hơn trong các lănh-vực kiến-trúc chiến-hạm, luyện-kim, sức đẩy hạt nhân... Chỉ nhờ cách-thức đó Hải-Quân Việt-Nam mới có thể tự-lực cánh-sinh thoát khỏi sự lệ-thuộc và kiểm-soát của người Hoa-Kỳ. Đề-nghị này bị xếp lại v́ coi là không thực-tế. Chỉ có một Sĩ-Quan được gửi du-học ngoài nước Mỹ mà thôi.[195] 

            Chương-tŕnh MAP (Military Assistance Program) chấp-thuận 406 Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam du-học Hoa-Kỳ về tất cả các ngành chuyên-môn của Hải-Quân. Ngoài ra, nhiều Sĩ-Quan được đưa đi thực-tập trên các chiến-hạm thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.

            Các Hộ-Tống-Hạm HQ. 01, HQ. 04 và HQ. 05 của Hải-Quân Việt-Nam tham-dự cuộc thực-tập đánh tàu ngầm đầu-tiên với các Tiềm-Thủy-Đĩnh Hoa-Kỳ Blue Fish và Blue Gill ngoài khơi vịnh Cam Ranh. Các Hộ-Tống-Hạm t́m tàu ngầm bằng sonar và đánh bằng các lựu-đạn tay MK2. Thám-xuất-viên và các nhân-viên khác của Việt-Nam rất khá trong việc xác-định vị-trí và tấn-công tàu ngầm Hoa-Kỳ.[196]

Trong những năm liên-tiếp, HQVNCH lưu-tâm nhiều đến việc chống Tiềm-Thủy-Đĩnh. Tuy khả-năng nhân-viên khá nhưng chiến-hạm lại quá cũ. Vỏ tàu mỏng manh không chịu nổi áp-lực thủy-lựu-đạn mỗi khi phóng cho nổ ngầm dưới nước.[197] 

            Lúc này, Hải-Quân Việt-Nam có gần sáu ngàn quân, kể các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên.

            Lực-Lượng Hải-Thuyền có 80 ghe đủ các loại, tuần-tiễu sát ven biển Vùng I Duyên-Hải, từ vĩ-tuyến 17 tới Sa-Huỳnh.

 

 

 Hải-thuyền chạy buồm mang truyền-thống hàng-hải dân-tộc.

 

            Hải-Lực nhận:

            - 1 PCE (Patrol Craft Escort) Hộ-Tống-Hạm Đống Đa II, HQ. 07[198].

            - 1 LSM (Landing Ship, Medium) Hải-Vận-Hạm Hương-Giang HQ. 404.

            Trong khi đó các Trục-Lôi-Hạm Hàm Tử II HQ. 114, Chương Dương II HQ. 115, Bạch Đằng II HQ. 116 theo thứ-tự, lần-lượt hồi-hương. Các MSC là những chiến-hạm duy-nhất được đóng mới tinh, tuy kích-thước nhỏ bé nhưng t́nh-trạng về kỹ-thuật lại rất cao.

Tất cả Thủy-Thủ-Đoàn Việt-Nam của các chiến-hạm Việt-Nam đều trải qua chương-tŕnh huấn-luyện, thực-tập ngoài khơi tại Hoa-Kỳ, rồi mới nhận-lănh chiến-hạm hồi-hương.

            Tổng-số chiến-hạm của Hải-Lực là 21 chiếc.

Tinh-thần Hải-Quân lên cao, khuynh-hướng quốc-gia rơ-rệt [199].

 

 

HQ. 07 là chiếc Hộ-Tống-Hạm PCE đầu-tiên của HQVN.

 

            Huy-hiệu Hạm-Trưởng, biểu-tượng cho quyền chỉ-huy trên biển được chính-thức ban-hành. Huy-hiệu bằng đồng, được đúc nổi với ngôi sao dẫn-lộ, một bánh xe 'tay lái tàu' có khắc 3 hàng chữ ṿng quanh: Danh-dự, Tài-đức, Kỷ-luật.[200] Khi đương-nhiệm, các Hạm-Trưởng[201]189 mang huy-hiệu này trên ngực áo bên phải. Các cựu Hạm-Trưởng mang huy-hiệu trên ngực áo bên trái.

 

   

 Huy-hiệu Hạm-Trưởng, biểu-tượng cho quyền chỉ-huy trên biển. H́nh bên phải là huy-hiệu không chính-thức.

 

 

 

“ Đại-Tá-Đoàn Tương-Lai của TQLC” từ trái sang phải: Trung úy Phạm Văn Chung, Trung úy Ngô Văn Định, Trung úy Nguyễn Năng Bảo, Đại úy Cổ Tấn Tinh Châu, Đại úy Nguyễn Thành Yên, Đại úy Cao Văn Thịnh, Đại úy Nguyễn Văn Hay, Đại úy Hoàng Văn Nam  tại sân tập đổ-bộ trực thăng ở Thủ-Đức năm 1961.

 

Việc Thành-lập Liên-đội Người Nhái.

Việc thành-lập Liên-đội Người Nhái[202] gặp trở ngại và xảy ra hơi trễ. Ngay khi mới làm Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam, Trung-Tá Quyền đă đề-nghị việc thành-lập một Liên Đội Người Nhái để bảo-vệ các tàu bè, cầu tàu cũng như các cầu cống. Lúc đầu các cố-vấn Mỹ chống lại đề-nghị này v́ họ tin rằng Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam đă được giao cho trọng-trách này.

 

 Thủy Kích TQLC tại Phá Tam Giang.

 

Sau khi HQ Hoa-Kỳ không nhận huấn-luyện Người Nhái, phía Việt-Nam đă gửi Sĩ-Quan và Đoàn-Viên sang Đài Loan để thụ-huấn vào năm 1960. Một Sĩ-Quan và và bảy Đoàn-Viên được huấn-luyện ở Đài Loan đă trở thành ṇng cốt của Liên Đội Người Nhái. Toán người nhái này chỉ được chính-thức thành-lập vào tháng 7, 1961. Lúc đầu, Lực-Lượng này được chấp-thuận một cấp-số 48 Sĩ-Quan và Đoàn-Viên và được trao cho trách-nhiệm tháo-gỡ các chướng-ngại-vật dưới nước, bảo-vệ các hải cảng quân-sự và thực-hiện các cuộc hành-quân đặc-biệt trong các sông ng̣i.

 

Hoạt-động Tuần-dương hỗn-hợp với Đệ Thất Hạm-Đội.

Vào đầu thập-niên 1960, nhiều tin-tức t́nh-báo ghi-nhận những nỗ-lực của Cộng-Sản gia-tăng xâm-nhập bằng đường biển. Trong khi việc tuần-tiễu vùng cận-duyên có thể trông cậy vào những đơn-vị hải-thuyền đang được thành-lập, việc ngăn-chặn những chuyến tàu lớn của Bắc-Việt vượt Vĩ-tuyến 17 ngoài khơi 30 hải-lư rơ-ràng ngoài khả-năng của Hải-lực Việt-Nam lúc đó. Sau khi kế-hoạch tổng-quát được nghiên-cứu và chấp-thuận, cuộc tuần-dương hỗn-hợp Việt-Mỹ đă khởi-sự vào ngày 22 tháng 12 năm 1961[203].

Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng Không-Thám Hoa-Kỳ cũng thiết-lập một trục tuần-tiễu cách bờ 30 Hải-lư ra ngoài tới vùng quần-đảo Hoàng-Sa bằng các Thủy-phi-cơ SP-5P Marlin của Không-Đoàn Tuần-Thám VP 40. Các phi-cơ này đặt căn-cứ tại Đài-Loan[204] 192 tuần-tiễu bất thường, nhưng ít nhất hai ngày một lần.

 

Kế-hoạch tổng-quát về tuần-dương khởi-sự vào ngày 22 tháng 12 năm 1961

 

Thủy-Phi-Cơ Martin P-5 đang phóng 2 hỏa-tiễn.

            Các chiến-hạm được chỉ định tuần-tiễu 10 ngày ngoài biển và về Đà Nẵng nghỉ 5 ngày. Các chiến-hạm được chỉ thị là chạy đi chạy lại trong khu-vực trách-nhiệm. Mỗi chiến-hạm được chỉ-định tuần-dương 30 ngày cho mỗi chuyến công-tác, tức là có mặt tại Vĩ-tuyến ba lần và có 15 ngày nghỉ bến. Do đó, tại Đà-Nẵng luôn luôn phải có ít nhất là 3 chiến-hạm. Lệnh công-tác của mỗi chiến-hạm được dự trù là 45 ngày

            Đây là lần đầu-tiên Hải-Quân Việt-Nam phải tuần-tiễu lâu dài và bắt buộc phải hải-hành thường-trực trong 10 ngày đêm. Các Hộ-Tống-Hạm PC có bề ngang rất hẹp, 24 bộ trong khi dài tới 174 bộ, thường lắc rất mạnh những khi đi sóng ngang. Trong mùa gió Đông-Bắc biển rất xấu, các PC gần như là một Tiềm-Thủy-Đĩnh, lúc nào cũng bị nước bao-phủ từ sàn tầu lên tới đài chỉ-huy. Khi tuần-tiễu theo trục Đông-Tây, các chiến-hạm phải đi hơi ngang sóng, do đó, mức-độ lắc lư của các Hộ-Tống-Hạm có thể nói là khủng khiếp.[205]

            Việc tuần-tiễu được khởi-sự vào mùa Đông, đúng lúc gió mùa Đông-Bắc thổi mạnh, và vùng biển gần vĩ tuyến 17 có sóng lớn, mưa phùn và lạnh lẽo. Trong khi thực-phẩm và tiếp-liệu thiếu-thốn, công-tác tuần-dương lúc đó quả thực vất vả, đôi khi vượt quá với thể-lực và sức chịu-đựng của người Việt-Nam cỡ trung-b́nh. Đặc-biệt là nước uống trên Hộ-Tống-Hạm PC rất kém tiêu-chuẩn, thường có màu vàng v́ lẫn-lộn rỉ sét. Được đào-luyện trong những hoàn-cảnh khắt khe như vậy, mười năm sau có rất nhiều Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan "vĩ-tuyến" đă trở nên những cấp chỉ-huy lỗi-lạc trong Hải-Quân Việt-Nam thời thập-niên 1970.

Phải chờ đợi nhiều năm, khi Hải-Quân Việt-Nam có các chiến-hạm lớn hơn và khi hạn-kỳ 10 + 5 ngày được rút ngắn xuống c̣n 6 ngày tuần-dương + 3 ngày nghỉ bến, cuộc sống "tuần-dương Biển Bắc" mới một phần nào bớt cơ-cực.

 

Nhiệm-vụ của HQVNCH và việc Thi-hành.

            Qua hai đạo dụ: Dụ số 1 ngày 1 tháng 7 năm 1949 và Dụ số 2 ngày 6 tháng 3 năm 1952 do Quốc-Trưởng Bảo-Đại kư ban-hành, việc thành-lập Hải-Quân cũng như nhiệm-vụ của tổ-chức này đă được đề-cập đến lần đầu-tiên.

            Nhiệm-vụ HQVN bao gồm công-tác canh-pḥng và kiểm-soát miền duyên-hải, hải-đảo cùng các thủy-lộ nội-địa. Hải-Quy Việt-Nam[206] có ghi Nhiệm-vụ và Thi-hành của HQVN ngay trong những trang đầu-tiên.

Để nhiệm-vụ trên được hoàn-tất, Hải-Quân Việt-Nam thi-hành những công-tác như sau:

- Kiểm-soát an-ninh duyên-hải

- Ngăn-chận địch xâm-nhập

- Rà ḿn, khai quang hải-cảng và thủy-lộ

- Phối-hợp Không-Quân và Lục-Quân trong các cuộc hành-quân liên-quân

- Bảo-vệ an-ninh hệ-thống thủy-lộ.

- Yểm-trợ lực-lượng bạn cả trên hai phương-diện hành-quân và tiếp-vận.           

Xem như vậy, nhiệm-vụ Hài-Quân chỉ có tính-cách pḥng-thủ như kiểm-soát, ngăn-chặn, giữ ǵn an-ninh, yểm-trợ quân bạn v.v… Trong suốt quá-tŕnh hoạt-động, những quy-định này ảnh-hưởng rất nhiều, gây bất-lợi cho kết-quả sau cùng của cuộc chiến. Hải-Quân vốn là một phương-tiện thế công[207], nhưng ưu-điểm này đă không bao-giờ được phát-huy suốt trong cuộc chiến.

 

 

Có hàng chục ngàn ghe thuyề qua lại trên Biển Đông. An-ninh duyên-hải bao gồm việc kiểm-soát các thuyền tương-tư như chiếc này 

 

Quan-niệm Thế Công của Hải-Quân

Đọc tài-liệu liên-hệ đến HQVNCH, người ta thấy có hai trường-hợp, ưu-điểm thế công của Hải-Quân đă được Quân-đội nhắc đến một cách sơ sài như sau:

- Lần đầu là vào năm 1956, khi hào-khí của Hải-Quân nhất là Hải-Lực vừa mới dâng cao, khả-năng của HQVNCH được một số chức-quyền tin-tưởng. Những Vị này nghĩ rằng: Nếu một khi Hải-Quân được trang-bị đầy đủ, huấn-luyện kỹ-lưỡng, Quân-chủng này có thể thi-hành các hoạt-động tấn-công tiêu-diệt địch bằng những phương-cách như sau:

(1) Phong-toả hải-phận địch-quân.

(2) Đổ-bộ chiếm-cứ lănh-thổ địch.

(3) Hành-Quân phá-hủy các vị-trí địch.

(4) Tiêu-diệt Hải-Quân của địch.

Quan-niệm như vậy có thể đúng. Tuy vậy trong thời điểm 1956 đó quả là một tham-vọng quá lớn lao[208], vượt ngoài khả-năng thực-hiện của Việt-Nam Cộng-Ḥa nói chung và HQVNCH nói riêng. Với phương-tiên thô-sơ, trang-bị nghèo nàn; không một ai có thể nào làm được chuyện lớn!  

- Lần thứ nh́ vào khoảng năm 1972-1973, phương-tiện thế công của Hải-Quân sống lại với ư-kiến của Đại-Tướng Cao-Văn-Viên về việc tấn-công Miền Bắc để pḥng-thủ Miền Nam.[209] Trung-Tá Nguyễn-Đạt-Thịnh thuộc Tổng-Cục Chiến-Tranh Chính-Trị cũng khai-triển kế-hoạch này qua một số bài báo. Theo đó VNCH bất-thần sử-dụng Hải-Quân mang vài Sư-Đoàn đổ-bộ bờ biển Bắc-phần Việt-Nam. Kế-hoạch đó tuy vậy chưa bao giờ được Bộ Tổng-Tham-Mưu nghiên-cứu một cách nghiêm-chỉnh và ước-lượng mức-độ khả-thi[210].

            Bỏ ngoài những sách-lược chỉ có tính-cách giấy tờ, HQVNCH cũng đă từng thực-hiện những công-tác nhỏ, tấn-công hậu-tuyến địch ngoài Bắc-Việt bằng Hải-tuần. Kết-quả đáng khích-lệ, nhưng tiếc rằng kế-hoạch chỉ được thi-hành nửa vời, đứt đoạn, chưa đ́ đến nơi đến chốn.

Cựu Tư-Lệnh HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ, khi được hỏi về chuyện này đă phát-biểu như sau: "Tôi chỉ tiếc một điều là từ lâu "họ" đă không khai-thác tiễm-năng của Hải-Quân, không sử-dụng được đúng mức một lực-lượng tinh-nhuệ và hùng-hậu nhất nh́ trong vùng biển Thái-B́nh-Dương..."[211]

            Người Việt-Nam chúng ta suy-tôn 3 vị anh-hùng bách-chiến là Lư-Thường-Kiệt, Trần-Hưng-Đạo và Nguyễn-Huệ. Cả ba nhà quân-sự này đều là đă tận-dụng ưu-điểm thế-công của quân thủy. Gần thời-đại chúng ta nhất có Quang-Trung Hoàng-Đế Nguyễn-Huệ. Thành-tích biệt-lệ bách-chiến bách-thắng của nhà Vua chính là nhờ biết sử-dụng Hải-Quân. Giáo-Sư Sử-Học Nguyễn-Nhă đă khẳng-định như vậy khi viết rằng: "Trong các cuộc đánh chiếm Gia-Định, Phú-Xuân cũng như ra Bắc-Hà để diệt hai họ Nguyễn, Trịnh; Nguyễn-Huệ luôn luôn tiến đại-quân bằng đường thủy. Nguyễn-Huệ là chiến-lược-gia đại-tài về 'chiến-lược gió mùa', lợi-dụng đường biển và mùa gió đại-thắng địch-quân."[212]

            Người Hoa-Kỳ cũng nh́n thấy những ưu-điểm thế công trong chiến-trận Việt-Nam. Đô-Đốc Ulysses S. Grant Sharp, Tư-Lệnh Thái-B́nh-Dương, đă nhiều lần thúc-dục chính-phủ sớm ra lệnh cho Hải-Quân phong-tỏa vịnh Bắc-Việt.[213] Nếu Hoa-kỳ chịu thi-hành kế-hoạch này, tránh kế-hoạch leo thang chiến-tranh từ-từ th́ trận chiến Việt-Nam có lẽ đă đổi chiều, và nhất là có thể đă cứu vớt được nhiều sinh-mạng không bị hy-sinh vô-ích.

 

 

Lược-đồ kế-hoạch thả ḿn phong-tỏa Hải-cảng Hải-Pḥng

 

Giang-Lực trong những năm 1960-1961.

            Vào tháng 10 năm 1960, Giang-Lực đảm-nhiệm thêm công-tác Hộ-tống các công-voa chở than từ Năm Căn và gạo từ Cà Mau, Rạch Giá, Châu Đốc và Bạc Liêu, từ châu-thổ sông Cửu Long lên Sài-G̣n. Đôi khi Việt Cộng, gần như cắt đứt Sài-G̣n ra khỏi con đường tiếp-tế này. Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực biệt-phái 18 STCAN, 4 LCM và 8 LCVP cho một đơn-vị gọi là Toán Hộ-tống Giang Hành. Đơn-vị này đă Hộ-tống khoảng từ sáu đến tám chuyến công-voa khứ hồi mỗi tháng. Trong năm 1961, Hải-Quân trợ-giúp cho việc chuyên-chở trên một triệu tấn hàng hoá từ châu-thổ. Cộng-Sản đă cố-gắng khuấy-phá các đoàn công-voa nhiều lần. Có tới năm trường hợp địch-quân giật ḿn, nhưng không có tầu chuyên-chở nào bị thiệt-hại đáng kể.

Ngay cả trước khi tiếp-nhận thêm công-tác hộ-tống công-voa, Giang-Lực đă bị thiếu quân-số để có thể cung-ứng cho tất cả các chiến-đĩnh. Vào tháng 12, 1960, quân-số được trang-bị cho các chiến-đĩnh ở mức hơn 50% dưới mức đ̣i hỏi. V́ lư-do này, khả-năng tác-chiến của Giang-Lực đă bị hạn-chế. Trung-Tá Quyền đă đề-nghị một cuộc gia-tăng quân-số trong tương-lai cho toàn-thể Hải-Quân, nhưng trong khi chờ đợi, ông đă thuyên-chuyển Binh-sĩ từ các đơn-vị khác tới để tăng-cường cho Giang-Lực.

            Năm 1960, các Giang-Đoàn được chấp-thuận một cấp-số tổng-cộng 602 người, nhưng chỉ có 340 người hiện diện. Vào tháng 3 năm 1961, chính nhờ nỗ-lực của Trung-Tá Quyền, con số này đă được tăng lên 422 người, đó là một tiến-triển khả-quan. Đô Đốc Felt đă thảo-luận vấn-đề này với Tổng-Thống Diệm trong cuộc viếng thăm Đệ Thất Hạm-Đội ngày 29 tháng 9 năm 1961 ở Việt-Nam. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 1961, các Cố-Vấn báo-cáo là Giang-Lực vẫn c̣n thiếu 30% quân-số.[214]

 

Phối-hợp Hoạt-động giữa Hải-Quân và Lục-Quân

Giang-Lực chưa được sử-dụng tới mức hiệu-năng tối-đa. Người Mỹ vẫn cho rằng sự thiếu-hụt quân-số chính là lư-do của vấn-đề này, nhưng cũng c̣n các lư-do khác nữa. V́ Lục-Quân ít khi sử-dụng các Sĩ-Quan Hải-Quân trong việc hoạch-định các kế-hoạch hành-quân, các Lực-Lượng của Giang-Lực thường được tập-trung vào phút chót, do đó chỉ quy-tụ được một số ít các Giang-Đĩnh. Toán Giang-Đĩnh nhỏ bé được sử-dụng cho cuộc hành-quân không đủ sức để chống-cự những cuộc tấn-công lớn của địch. Và chỉ có các tàu đổ-bộ loại LCU, LSIL, và các LCM Commandement/Monitor mới được trang-bị đầy đủ các dụng-cụ truyền-tin; việc kêu gọi các Lực-Lượng để tăng-cường đôi khi gặp trở ngại.

Cũng thế, Lục-Quân cũng rất sợ hăi ảnh-hưởng tai-hại của các vụ Cộng-Sản giật ḿn đối với các đơn-vị của họ. Các cuộc tấn-công bằng ḿn, thường được tiếp nối các chiến-thuật đă được địch-quân phát-triển trong cuộc Pháp Đông-Dương. Một quả ḿn được điều-khiển cho nổ sẽ có thể làm cho chiếc tàu dẫn đầu bị dừng lại trong lạch và địch-quân có thể tấn-công tất cả tàu trong đoàn từ hai bên bờ. Giang-Lực cố-gắng chống lại chiến-thuật này bằng các dụng-cụ rà ḿn rất thô-sơ nhưng cũng hữu-hiệu, gồm có các móc được kéo hai bên các LCVP hoặc dây cáp được căng giữa hai LCVP để cắt đứt dây điều-khiển ḿn.

Tuy nhiên, không có sự pḥng-ngừa về ḿn vào ngày 25 tháng 11 năm 1960, khi một chiếc LCM bị nổ ḿn gần làng Hậu Mỹ trong tỉnh Định Tường. Cuộc hành-quân này bắt đầu khi vị Tư-Lệnh Bộ-Binh Vùng, không hỏi ư kiến của Hải-Quân đă ra lệnh cho Giang-Lực chuyên-chở một Tiểu-Đoàn Bộ-Binh từ Tây Ninh đến một vị-trí ở ven Đồng Tháp Mười. Vào lúc 6 giờ chiều, trong khi ba chiếc LCM chở mỗi chiếc 150 người, đến Hậu Mỹ trên kinh Ba Mươi Tám, một tiêng nổ kinh-thiên động-địa phát ra. Sức mạnh của nó nhấc bỗng chiếc LCM đi đầu lên khỏi mặt nước, phá thủng vách sắt gần cửa mũi, và làm lơm nóc mui bên trên boong chở chiến-xa. Binh-sĩ ngồi trên boong chở chiến-xa bị hất lên đụng đầu vào mái, mũi súng của họ chọc thủng lớp ván gỗ bên trên. Đạn từ hai bên bờ kinh bao-phù lực-lượng. Các LCM chống trả với đại-bác 20 ly và đại-liên. Các Chiến-đĩnh sau đó ủi băi bên bờ trái và đổ-bộ Binh-sĩ. Một lực-lượng hùng-hậu địch tiếp-tục tấn-công từ một địa-điểm cách bờ kinh 100 thước. Sau mười phút giao-tranh, địch rút lui và lực-lượng ta kiểm-điểm tổn-thất. 8 Binh-sĩ tử-trận và 23 Binh-sĩ bị thương nặng, đa-số v́ bị ḿn của địch.

            Vào tháng 7 năm 1961, Giang-Lực đóng một vai tṛ hữu-hiệu hơn trong cuộc hành-quân lớn và có kết-quả nhất kể từ năm 1954. Chiến-dịch mệnh-danh Đồng Tiến được tổ-chức tại tỉnh Kiến Phong trong vùng đồng lầy của quận Mỹ An. Khu-vực tiếp-xúc ở phía Bắc với kinh Đồng Tiến, phía Nam với kinh Tháp Mười, phía Đông với kinh Tư Mới, và về phía Đông sông Cửu-Long.

Khu-vực này từ lâu đă được biết là một cứ-điểm quan-trọng của Cộng-sản. Buổi sáng ngày 14 tháng 7 năm 1961, Tiểu-Đĩnh và các đơn-vị Pháo-Binh Lục-Quân chiếm giữ các yếu điểm dọc theo các kinh Tháp Mười, kinh Tư Mới và bắt đầu tấn-công doanh trại của địch. Trong đêm đó, các lực-lượng khác của Giang-Lực đổ-bộ một Tiểu-Đoàn Nhảy Dù dọc theo kinh Đồng-Tiến, và từ tờ mờ sáng, Binh-sĩ bắt đầu tiến về phía Nam tới làng Mỹ Quí. Khi quân Cộng-Sản bị bao vây và muốn trốn chạy về phía Bắc, chúng bị Tiểu-Đoàn Nhảy Dù ngăn-chặn. Lực-Lượng địch cuối cùng bị đánh tan sau sáu giờ giao-tranh vào buổi sáng ngày 16 tháng 7 năm 1961. Tiểu Đoàn 52 Cộng-Sản và một Đại Đội của Tiểu-Đoàn 504 Cộng-Sản bị loại ra khỏi ṿng chiến 167 người, 11 bị bắt làm tù-binh, tịch-thu 85 vũ-khí vừa cộng-đồng và cá-nhân. Sau cuộc hành-quân các đơn-vị tham-dự trở về Sài-G̣n được đón tiếp trọng-thể.

Ngoài ra, Giang-Lực c̣n thực-hiện thêm nhiều cuộc hành-quân hỗn-hợp khác nữa với Lục-Quân. Trong năm 1961, đă có 27 cuộc hành-quân hỗn-hợp như vậy[215].

 

Thủy-Quân Lục-Chiến lớn mạnh

            Song song với đà phát-triển của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa (QLVNCH) từ năm 1956 đến 1960, Tiểu-Đoàn 2 Sói Biển và Tiểu-Đoàn 4 Ḱnh Ngư được thành-lập; Thủy-Quân Lục-Chiến cải-tiến thành Liên-Đoàn vào năm 1961. Các Sĩ-Quan chỉ-huy TQLC trong thời-gian này là:

- Thiếu-Tá Phạm-Văn-Liễu từ 18-1-1956.

- Thiếu-Tá Lê-Như-Hùng tiếp theo Thiếu-Tá Phạm-Văn-Liễu.

            Để yểm-trợ đặc-biệt cho những cuộc hành-quân thủy-bộ, Đại-Đội Yểm-Trợ Thủy-Bộ, Đại-Đội Vận-Tải, Đại-Đội Truyền-Tin, Đại-Đội Quân-Y, v.v... kế-tiếp nhau ra đời. Năm 1962, Tiểu-Đoàn 1 Pháo-Binh thành-h́nh gồm 2 Pháo-Đội 75 ly và 1 Pháo-Đội 105 ly.

 

 

Đại-bác Dă-chiến Howitzer 105 ly của TQLC Việt-Nam.

 

Năm 1962

            - Tháng 2, Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Giang-Pḥng được thành-lập và đặt trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Địa-Phương-Quân. Hải-Quân Trung-Tá Trần-Văn-Chơn là Chỉ-Huy-Trưởng đầu-tiên.[216] 

            Lực-Lượng Hải-Thuyền dự-trù bành-trướng tới 61 ghe chủ-lực, hơn 200 ghe di-cư, 320 ghe buồm và 23 ghe chủ-lực đang đóng. Các Ghe Chủ-lực trang-bị máy Gray Marine 225 mă-lực, chạy bằng dầu cặn. Căn-cứ của.28 Duyên-Đoàn được xây-cất hầu hết nơi các cửa Sông, tiện-lợi cho cả hai việc hoạt-động và pḥng-thủ.

           

 

Ghe Chủ-Lực có thể chạy tới 12 gút.

 

            Từ khi thành-lập, Thủy-Quân Lục-Chiến chỉ chuyên phối-hợp với Hải-Quân trong những cuộc hành-quân thủy-bộ, chuyên-chở bằng chiến-đĩnh. Năm 1961, Thủy-Quân Lục-Chiến được huấn-luyện Trực-thăng-vận để có thể hành-quân không-vận một cách thần-tốc hơn. Khả-năng mới này được thử-nghiệm thực-tế ngoài chiến-trường.

 

 

H́nh-ảnh TQLC trong cuộc hành-quân Trực-thăng-vận đầu-tiên ngày 22-4-1962 tại Sóc-Trăng

 

            - Tháng 6, Lực-Lượng Giang-Pḥng nhận 145 LCVP để lập thành 24 Đại-đội Tuần-Giang.

            - Tháng 8, Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang tuyển chọn gấp đôi số sinh-viên cho khóa 12 (từ 50 sinh-viên mỗi khóa tăng lên 100 sinh-viên) và thời-gian thụ-huấn được rút ngắn c̣n 18 tháng, thay v́ hai năm như các khóa trước.

            Khóa đầu-tiên ảnh-hưởng phương-pháp huấn-luyện phối-hợp Chỉ-huy và Cơ-khí (Line Officer) là khóa Đệ Nhất Nam-Dương tức Khóa 10 SQHQ..Qua nhiều kỳ thi sát-hạch khả-năng, chỉ có 37 Sĩ-Quan trong số 53 khóa-sinh được mang cấp Hải-Quân Thiếu-Úy.[217] 

            - Tháng 10, sáu mươi hai Người Nhái tốt-nghiệp khóa Hải-Kích, do sự huấn-luyện của SEAL Hoa-Kỳ. Danh-từ SEAL là chữ viết tắt từ ba chữ: Sea, Air, Land.[218]

            Cũng thời-gian này, Hải-Đoàn 22 Xung-phong[219] được thành-lập với 19 Chiến-đĩnh và hơn 200 Đoàn-Viên.

            Hải-Lực tiếp-nhận:

            - 2 PCE (Patrol Craft Escort) Hộ-Tống-Hạm Chi Lăng II HQ. 08, Kỳ Ḥa 09.

            - 1 LSM (Landing Ship Medium) Hải-Vận-Hạm Tiền Giang HQ. 405.

            - 2 LST (Landing Ship, Tank) Dương-Vận-Hạm Cam Ranh HQ. 500[220] và Dương-Vận-Hạm Đà Nẵng HQ. 501.[221].

 

Khu-Trục-Hạm Mahan (DLG-11) đến thăm thiện-chí Sài-G̣n nhân dịp Quốc-Khánh VNCH 1962.

 

Năm 1963

            Hành-Quân Sóng T́nh Thương khai-diễn ngày 3 tháng 1 năm 1963 với mục-đích tái-chiếm và b́nh-định khu-vực Năm Căn. Hải-Quân Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền, TL/HQVN đích thân làm Chỉ-Huy-Trưởng.

- Chỉ-huy Lực-Lượng Đổ-Bộ: Trung-Tá Lê-Nguyên-Khang

- Tham-Mưu-Trưởng: HQ Thiếu-Tá Đinh-Mạnh-Hùng

Quan Niệm Hành-Quân như sau:

(1) Giai-đoạn I: (Khoảng 1 tháng)

            Lực-Lượng TQLC đổ-bộ từ mỏm Cà Mau (Xóm Mới), hành-quân truy-lùng và tiêu-diệt địch tại phía Nam sông Cửa Lớn; sau đó các chiến-hạm và Hải-Thuyền cùng TQLC vào tái chiếm Năm Căn. Một Hải-Đoàn khai thông thủy-lộ từ Đầm Dơi xuống Năm Căn.

(2) Giai-đoạn II: (Khoảng 1 tháng) HQ Thiếu-Tá Nghiêm-Văn-Phú chỉ-huy.

 - Xây-dựng căn-cứ Năm Căn. Tái-lập quận Năm Căn.

 - Hành-Quân mở rộng vùng b́nh-định.

 (3) Giai-đoạn II:

 - Công-tác b́nh-định do lănh-thổ thi-hành[222]. Hải-Quân yểm-trợ an-ninh đường thủy.

Thủy-Quân Lục-Chiến phải lội nước từ Hải-Vân-Hạm lên hành-quân tiễu-trừ Công-Sản Vùng Mũi Cà-Mau.  (Photo courtesy ofLieutenant Colonel Michale Gott, USMC).

 

TQLC vào b́nh-định Năm Căn.

 

            Trong năm này, Hải-Quân có thêm:

            - Năm thủy-xưởng được thành-lập tại các Duyên-khu. Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Thuyền tại Phú Quốc được dời về Cam Ranh.

            Hải-Lực nhận:

            - 1 LSM Hải-Vận-Hạm Hậu Giang, HQ. 406.

            - 1 LST Dương-Vận-Hạm Thị Nại, HQ. 502.

            - 1 YOG (Yard Oil Gasoline Barge, Self-propelled) Hoả-Vận-Hạm HQ. 471.

            - 2 Hộ-Tống-Hạm (Nguyên-thủy là Truc-Lôi-Hạm Hạm-Đội MSF- Minesweeper, Fleet: MSF 300 Serene và MSF 301 Shelter. Hải-Quân Hoa-Kỳ biến-cải thành Hộ-Tống-Hạm, PCE -Patrol Craft Escort).

            - Hải-Lực cũng bắt đầu tiếp-nhận dần dần các Tuần-Duyên-Đĩnh[223] PGM (Patrol Motor Gunboat). Theo chương-tŕnh MAP, HQVN sẽ được trang-bị 12 PGM.

            Ngay trong năm 1963, 10 chiếc Tuần-Duyên-Đĩnh được chuyển-giao. HQ. 600 Phú Dự, HQ. 601 Tiên Mới, HQ. 602 Minh Hoa, HQ. 603 Kiến Vàng, HQ. 604 Kèo Ngựa chuyển-giao vào tháng 2. HQ. 605 Kim Quy, HQ. 606 May Rút, HQ. 607 Nam Du chuyển-giao tháng 5. HQ. 608 Hoa Lư, HQ. 609 Tổ Yến chuyển-giao tháng 7.  

            Giang-Lực nhận:

            - 24 monitors, một số LCVP, nâng tổng-số giang-đĩnh lên 208 chiếc.

            - 12 MLM (Minesweeping Launch) mang số từ HQ. 150 đến HQ. 161 để trang-bị cho Giang-Đoàn Trục-lôi.

            Thời-gian này Hải-Quân có hơn sáu ngàn quân các cấp. Lực-Lượng Hải-Thuyền có 66 Sĩ-Quan (Sĩ-Quan Hải-Quân), 375 Hạ-Sĩ-Quan và 3359 Đoàn-Viên.

            Đầu tháng 4/1963, Khóa 11 Đệ Nhất Bảo-B́nh là khóa đầu-tiên bị rút ngắn học-tŕnh xuống 20 tháng, vội vă ra trường. Sau đó có lệnh thuyên-chuyển các tân HQ Thiếu-Úy khóa này tất cả xuống chiến-hạm để đi biển.[224]

            HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền bị hạ-sát vào ngày Ông từ-chối Ông (Thiếu-Tá Trương-Ngọc-) Lực và Ông (Đại-Úy Nguyễn-Kim-Hương) Giang không chịu ủng-hộ quân đảo-chính, đúng vào ngày sinh-nhật của Ông tức ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963[225]. HQ Trung-Tá Chung-Tấn-Cang, lúc đó đang chỉ-huy Giang-Lực, được thăng-cấp Đại-Tá lên nhận quyền Tư-Lệnh Hải-Quân.

            Các tài-liệu c̣n sót lại sau hơn 30 năm cho biết Hải-Quân VNCH luôn-luôn quan-niệm rằng Hạm-đội Sông Biển là tài-sản của quốc-gia, không thuộc riêng một cá-nhân hay phe-phái nào. Có lẽ v́ vậy, theo tác-giả Ngô-Đ́nh-Châu, số lượng Sĩ-Quan Hải-Quân hoạt-động (chính-trị) trong phe đảo-chánh lật đổ Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm không có nhiều.[226]

 

Khóa 13 SVSQHQ và các Sĩ-Quan Sinh-Viên Hiện-dịch

Kể từ khi thành-lập, Trường Hải Quân Việt-Nam chỉ đào-tạo các Sĩ-Quan Trừ-bị. Năm 1963, Bộ Quốc-Pḥng bắt đầu có ư-định tăng-cường cho Hải-Quân các Sĩ-Quan Hiện-dịch.

Đầu tháng 4 năm 1963 Khoá 13 Đệ Nhị Dương Cưu nhập quân-trường, tổng số 80 Sinh-Viên (dự-trù 100 nhưng dành 20 chỗ cho các tân Sĩ-Quan tốt-nghiệp Vơ-Bị Đà-Lạt đến thụ-huấn) học-tŕnh 18 tháng và tất cả là ngành Chỉ-Huy[227]. V́ lư-do muốn thu-hút sinh-viên Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt đă quảng-cáo là trường đào-tạo Sĩ-Quan đa-hiệu, khi măn-khoá sinh-viên có thể chọn bất cứ quân-chủng nào và họ cho phép 1 số sinh-viên chọn HQ và KQ sau khi tốt-nghiệp. Vào tháng 7 nồm 1963, khi khóa 13 vừa xong thời-gian huấn-nhục, 15 Thiếu-Úy Hiện-Dịch tốt-nghiệp khóa 16 trường Vơ-Bị Đà-Lạt được gửi nhập-học khoá này để chuyển qua Hải-Quân ngành Hiện-Dịch. Tuy nhiên sau khi thực-tập hải-hành trên chiến-hạm chờ hết thời-gian huấn-nhục của Khoá 13 th́ có 3 Thiếu-Uư xin trở lại Lục-Quân v́ không chịu được sóng và khi bắt đầu khoá học lại có 5 Thiếu-Uư nữa bỏ về Lục-Quân[228]. Sau cùng chỉ c̣n 7 Sĩ-Quan ỏ lại học khoá 13 SQHQNT mà thôi.

            Đó là lần đầu và cũng là lần chót Sĩ-Quan tốt nghiệp Vơ-Bị Đà-Lạt sang học Hải-Quân. Chương tŕnh này được bộ TTM đề-nghị Bộ Quốc-Pḥng huỷ bỏ. Ít năm sau thay v́ lấy những Sĩ-Quan tốt-nghiệp, các SVSQ Hiện-dịch Đà-Lạt được gửi xuống theo học chuyên-nghiệp Hải-Quân trong “mùa Quân-Sự”. Các SVSQ này, sau khi tốt-nghiệp tại “trường mẹ” Đà-Lạt được phục-vụ Hải-Quân với cấp-bậc Hài-Quân Thiếu-Úy Hiện-dịch. Tất cả những Sĩ-Quan Hiện-dịch khởi-sự hải-nghiệp trên chiến-hạm[229].  

 

Các SVSQ Hiện-dịch Đà-Lạt được gửi xuống theo học chuyên-nghiệp Hải-Quân.

 

Cam Ranh, Quân-cảng Việt-Nam.

            Không những Hạm-đội Sông Biển là tài-sản chung, mà ngay cả Quân-Cảng cũng là những sở-hữu thiêng-liêng của quốc-gia.

            Qua các tài-liệu Hải-Sử Việt-Nam, Cam-Ranh luôn luôn được ghi-nhận là một quân-cảng quan-trọng. Có nhiều bài báo từ Hà-Nội vu-khống cho Việt-Nam Cộng-Ḥa đă nhượng Cảng này cho Hoa-Kỳ trong thời chiến-tranh như một món quà dâng đế-quốc. Sau nhiều thập-niên, Lịch-Sử đă trả lời cho sự thật.

            Trong cuốn “Việt-Nam - Cuộc chiến 1858 – 1975”[230], các tác giả Nguyễn Khắc Cẩn, Phạm Viết Thực biên soạn tại Hà-Nội, đă đặc-biệt ghi-chú một chi-tiết[231] quan-trọng như sau: "Lúc sinh-thời, ông Diệm kiên quyết phản đối việc nhường quân-cảng Cam Ranh cho nước ngoài thuê mướn, phản đối việc đưa quân nước ngoài vào tham-chiến ở Việt-Nam". Những tác-giả này đă "khách quan khoa học" ghi-nhận về một nhân-vật lịch-sử[232]

 

Thủy-Quân Lục-Chiến trở thành Lực-Lượng Tổng-Trừ-Bị

            Trong năm 1963, Lực-Lượng Thủy-Quân Lục-Chiến trở thành Lữ-Đoàn, được tách rời khỏi sự yểm-trợ tiếp-vận của Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân. Thủy-Quân Lục-Chiến trực-thuộc thẳng Bộ Tổng-Tham-Mưu / Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa (BTTM /QLVNCH) về mọi mặt. Tư-Lệnh đầu-tiên của Lữ-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến là Trung-Tá Lê-Nguyên-Khang.[233]

            V́ nhu-cầu chiến-trường, Thủy-Quân Lục-Chiến cũng như Nhảy Dù trở thành lực-lượng Tổng-Trừ-bị. Đôi khi Thủy-Quân Lục-Chiến có những dịp hoạt-động song-hành với Hải-Quân nhưng toàn-thể binh-chủng “mũ xanh” này không bao giờ c̣n trở lại nguyên-vẹn dưới quyền điều-động hành-quân của Hải-Quân như trước nữa.

Thủy-Quân Lục-Chiến tiếp-tục lớn mạnh, trở thành Sư-Đoàn năm 1968 và là một trong các Đại-đơn-vị thiện-chiến nhất của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa đứng đối đầu hiên-ngang trước địch-quân.

 

Chuyển-biến Thống-thuộc Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam

            Trong năm 1963, Hải-Quân Việt-Nam mất quyền Chỉ-huy Thủy-Quân Lục-Chiến về hành-quân. Khi đó, Lực-Lượng này đă trở thành Lữ-Đoàn và được đặt trực-thuộc thẳng Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa.

V́ nhu-cầu hành-quân và địa-bàn hoạt-động khác nhau, quan-niệm sử-dụng TQLC của người Pháp và của người Mỹ khác nhau rất nhiều. Môi-trường và t́nh-trạng Việt-Nam cũng không giống họ. Các Đô-Đốc và Tướng-Lănh trong thời h́nh-thành TQLC Việt-Nam không ai có thể đoán biết những biến-thể sau này của nó lại đặc-biệt đến như vậy.

 

TQLC lư-tưởng, gian-khổ không màng

 

            Lực-Lượng TQLC Việt-Nam đă đi từ một tổ-chức phức-tạp gồm cả các đội quân thiện-chiến nhất là Commando đến những toán bán quân-sự là vệ-binh quốc-gia, đầu-tiên sử-dụng các đội giang-thuyền nhỏ bé. Lại có lúc nếu theo đề-nghị của Phó Đô-Đốc Auboyneau vào năm 1953, người ta tưởng như TQLC sẽ nắm hết cả Giang-lực trong tay... Nhưng rồi sau cùng, các đội TQLC chỉ c̣n giữ lại một ít thủy-xa, rời bỏ hẳn chiến-đĩnh, lớn dần lên để đảm-nhiệm vai tṛ Tổng-trừ-bị cho Quân-lực với cấp-số Sư-Đoàn.[234] Không có một binh-chủng nào của quân-lực VNCH lại thoát-xác đổi-h́nh nhiều và nhanh đến như vậy!

            Nhận-xét về liên-hệ Thủy-Quân Lục-Chiến và Hải-Quân, các sử-gia có thể cho rằng quân-chủng Hải-Quân Việt-Nam bị suy-yếu khi mất quyền điều-động Thủy-Quân Lục-Chiến. Tuy thế, khi xem xét lại t́nh-thế đặc-biệt của Việt-Nam Cộng-Ḥa năm 1963, người ta thấy Hải-Quân không c̣n có đủ khả-năng để điều-hành được TQLC về hành-quân như những năm trước nữa.[235]

            Sau 1963, tiếng-tăm của TQLCVN vang dội trên khắp chiến-trường như một binh-chủng độc-lập ngoài Hải-Quân. Tuy nhiên có hai điều xác-quyết mà nhiều quân-nhân đă lăng quên rằng:

- Cho đến 1975, TQLCVN vẫn nguyên-vẹn là một binh-chủng thuộc quân-chủng Hải-Quân. Quân-phục, quân-kỳ, phù-hiệu cấp-bậc, huy-hiệu đơn-vị... vẫn mang nét Hải-Quân.

- Nhờ không phải bận tâm điều-động TQLC về hành-quân mà tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam trở nên đồng-nhất hơn về chuyên-nghiệp và truyền-thống quân-chủng được nâng-cao.

 

Sự đồng-nhất Học-vấn trong Hải-Quân Việt-Nam

            Trong giai-đoạn thành-h́nh khó-khăn, Hải-Quân Việt-Nam được huấn-luyện chu-đáo hơn bất cứ một quân, binh-chủng nào.

            Ngoại-trừ các đoàn tuần-giang loại phụ-lực, các đội Commandos như Ouragan, Tempête, Jaubert, Montford... mang tính-cách phức-tạp sau này trở thành Thủy-Quân Lục-Chiến, Hải-Quân Việt-Nam ngay từ lúc khởi đầu là một tổ-chức thuần-nhất về bản-chất. Các quân-nhân Hải-Quân không có sự quá cách-biệt về tŕnh-độ học-vấn và kỹ-thuật.

            Sau khi tham-khảo công-báo Việt-Nam, một Giáo-sư Sử-học đă viết như sau:

"Vào thời-gian 1952, ứng-tuyển-viên vào trường Vơ-bị Liên-Quân Đà-Lạt chỉ cần nạp chứng-chỉ học-tŕnh lớp Đệ Nhị... Riêng ngành Hải-Quân, căn-cứ theo sự tham-khảo của chúng tôi từ Công-Báo, khi vào trường Sĩ-Quan tối-thiểu phải có Tú-tài 1 trở lên hoặc là sinh-viên tốt-nghiệp trường Cao-đẳng Hàng-hải thuộc hệ-thống Đại-học Sài-G̣n. Thành-phần Hạ-Sĩ-Quan và kể cả Thủy-binh cũng đ̣i hỏi có một tŕnh-độ học-vấn bậc Trung-học... Bằng-cấp lúc ấy rất hiếm và rất quư, có bằng Tú-tài lúc ấy là một điều quan-trọng, rất dễ dàng tiến thân."[236]

            Có nhiều chuyên-nghiệp Hải-Quân đ̣i hỏi ứng-viên phải có kiến-thức đại-số, lượng-giác, thiên-văn, vật-lư, hoá-học, sinh-ngữ... nào đó mới đủ căn-bản thụ-huấn tại quân-trường Việt-Nam. Sau đó, hầu hết quân-nhân đều sẽ có dịp tu-nghiệp tại ngoại-quốc. Các Thủy-thủ Điện-tử, Giám-lộ, Hải-pháo, Điện-pháo, Cơ-khí, Thám-xuất Radar, Sonar... tốt-nghiệp là những chuyên-gia cao-kỹ.

 

Việc Sử-dụng Chiến-hạm vào việc Tuần-dương

            Kiểm điểm lực-lượng của Hải-Lực vào năm 1961, Hải-Quân Việt-Nam chỉ có tất cả 6 Hộ-Tống-Hạm (1 PCE, 5 PC), 5 Trợ-Chiến-Hạm LSSL, 5 Giang-Pháo-Hạm LSIL, 2 Tuần-Duyên-Hạm CC, 5 Gianng-Vận-Hạm LSM, 3 Trục-Lôi-Hạm MSC, 1 Lương-Vận-Hạm AKL, 2 Hỏa-Vận-Hạm YOG. Trong khi đó, nhu-cầu tuần-dương chống Cộng-Sản xâm-nhập gia-tăng một cách khẩn-cấp.

Trừ hai tàu dầu, tất cả các chiến-hạm trên đây đều được sử-dụng vào việc tuần-dương, khoảng từ 25 cho đến 26 chiếc. Đến năm 1962, con số này tăng thêm ba chiếc nữa. Năm 1963, với 10 chiếc PGM, 1 LST, và 1 LSM được chuyển-giao; con số chiến-hạm và chiến-đĩnh có thể sử-dụng vào việc tuần-dương được tăng lên tất cả là 38 chiếc. Tuy nhiên, ngoại trừ việc sử-dụng hai Hải-Vận-Hạm vào việc tuần-dương lúc ban đầu, sau này các Hải-Vận-Hạm và Dương-Vận-Hạm không phải lănh trách-nhiệm tuần-tiễu nữa. Do đó, số tàu được dùng vào việc tuần-tiễu cũng không bao giờ quá 30 chiếc. Ngoài ra, các chiến-hạm phải được vào đại-kỳ và tu-bổ theo định-kỳ, số chiến-hạm khiển-dụng chỉ c̣n khoảng hai phần ba tức là dưới hai mươi chiếc.

 

Năm 1964

            - Lực-Lượng Hải-tuần được thành-lập, trực-thuộc Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải.

            Một Hải-Quân Trung-Úy và hầu hết nhân-viên thuộc đội Biệt-hải được biệt-phái Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải.

            - Tháng 1, Hải-Quân có 6,467 Sĩ-Quan và Đoàn-Viên.

            - Tháng 2 ngày 22, hai PT (Motor Torpedo Boat) đầu-tiên đến Đà Nẵng, đặt dưới sự sử-dụng của Lực-Lượng Hải-tuần, thuộc Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải.

- Tháng 04 năm 1964, Khóa 14 Đệ Nhị Kim-Ngưu nhập trường SVSQ/HQ Nha-Trang. Tồng số 100 Sinh-Viên gồm 80 ngành Chỉ-Huy và 20 ngành Cơ-Khí. Thời-gian thụ-huấn 18 tháng.[237]

 

 

Ngư-Lôi-Đĩnh PT (Motor Torpedo Boat) hành-quân đêm

 

            - Tháng 6, danh xưng Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Giang-pḥng được đổi thành Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang và được đặt trực-thuộc Bộ Tư-lệnh Hải-Quân.

            - Tháng 11, Hải-Quân tăng quân-số lên 8,162 Sĩ-Quan và Đoàn-Viên.

            Trung-tâm Huấn-luyện Kỹ-thuật Hải-Quân (Engineering School) từ Sài-G̣n được dời ra Cam Ranh.[238] Lúc đó, Thủy-Quân Lục-Chiến có cơ-sở mới nên tuần-tự chuyển-nhượng căn-cứ Cam Ranh lại cho Hải-Quân.

            - 2 PGM cuối cùng trong số 12 PGM được tiếp-nhận, Tuần-Duyên-Hạm Diên-hải HQ. 610 và Tuần-Duyên-Hạm Trường Sa HQ. 611. Tổng-số chiến-hạm là 44 chiếc.

            - 2 PCE Hộ-Tống-Hạm Nhựt Tảo HQ. 10 và Chí Linh HQ. 11.

            Ghe buồm của Lực-Lượng Hải-Thuyền được từ từ thay thế bằng ghe xi-măng Yabuta (c̣n được người Việt gọi là ghe Ferro ciment lưới gà, dịch ra tiếng Anh là Concreate Boats, đóng tại Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n[239].)

            Thời-điểm này Giang-Lực lớn mạnh với 7 Hải-Đoàn. Mỗi Hải-Đoàn có 19 giang-đĩnh.

            Cũng trong năm này, các căn-cứ lớn được thành-lập tại các hải-cảng quan-trọng như Cam Ranh, Đà Nẵng, Phú Quốc v.v...

 

Chiến-thuyền xi-măng Yabuta.

 

 

Cộng-Sản Hà-Nội gửi tàu xâm-nhập bằng đường biển, Chúng thường gọi là “Đường Hồ-Chí-Minh trên Biển”

 

Hành-Quân vượt Vĩ-Tuyến 17

            Đặc-biệt trong năm 1964, HQVNCH đă tổ-chức những cuộc hành-quân ra ngoài Bắc Vĩ-Tuyến 17. Các cảm-tử-Quân Biệt-Hải lập được nhiều chiến-tích qua một số cuộc đột-kích xâm-nhập vào khu-vực duyên-hải miền Bắc có căn-cứ quân-sự của CSBV, trong đó có cuộc tấn-kích diễn ra vào cuối tháng 7/1964.

            Dựa trên các không-ảnh t́nh-báo chụp các vị-trí của quân CSBV ở phía Bắc vĩ tuyến 17 (từ Đồng Hới đến Thanh-Hóa), Bộ Chỉ-Huy Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải đă khởi-động một cuộc tấn-kích với nỗ-lực chính các toán Biệt-Hải. Ngày 31 tháng 7/1964, cảm-tử-quân Biệt-kích với lối đánh tốc-chiến đă đổ quân tấn-công các vị-trí của CSBV đặt tại đảo Ḥn Mé và đảo Ḥn Ngự. Tại đảo Ḥn Mé, cảm-tử-Quân Biệt-Hải phá-hủy được một đài radar của Bắc-Việt. Cùng thời-gian này, tại đảo Ḥn Ngự, một toán Biệt-Hải khác đă tấn-kích đài tiếp-vận truyền-tin của CQ, vị-trí thứ hai này nằm gần Vinh, thị-xă tỉnh lỵ tỉnh Nghệ An, cách Bến Hải hơn 185 km.

Vào ngày 3 tháng 8/1964, một toán đặc-nhiệm Biệt-hải nữa đă tấn-công bằng pháo vào đài radar chính của CQ tại mũi Vinh Sơn, phía Nam thị-xă Vinh và trạm an-ninh của CQ ở gần Mũi Rọn thuộc vùng nói trên.[240]

 

PTF với Thủy-Thủ-Đoàn HQVN hành-quân vùng Biển Bắc

 

Những tiếp-xúc trực-tiếp đầu-tiên với Hải-Quân Hoa-Kỳ

            Như đă tŕnh-bày trong các đoạn trên, sự liên-hệ giữa Hải-Quân Việt-Mỹ về các vấn-đề huấn-luyện hay tiếp-vận đă khởi-sự từ trước: tuy vậy những tiếp-xúc ảnh-hưởng trực-tiếp đến các đơn-vị chiến-đấu của HQVNCH chỉ khởi-sự vào năm 1964.

            Nhà quân-sử Marolda viết về biến-cố đó như sau: Việt-nam Cộng-Ḥa càng ngày càng bị đe-dọa nhiều hơn bởi cuộc chiến khuynh-đảo do khối Cộng-Sản điều-động, làm xáo-trộn các hạ-tầng cơ-sở chính-trị, kinh-tế, xă-hội, quân-sự. Trong khi gặp nguy-khốn v́ du-kích địch tấn-công nhiều nơi, th́ chính-trị cũng bị phân-hoá; chính-quyền Việt-Nam Cộng-Ḥa đành phải trông mong vào sự trợ-giúp của Hoa-Kỳ...

Song song với đà gia-tăng quân-viện, số nhân-viên Hải-Quân trong phái-bộ MAAG (U.S. Military Assistance Advisory Group) cũng tăng từ 79 người lên đến 154 người vào đầu năm 1964. Hải-Quân Hoa-Kỳ bắt đầu gửi nhân-viên đến cố-vấn cho các Chiến-Hạm, Giang-Đoàn và các đơn-vị chiến-đấu khác của HQVNCH.[241]

            Những Sĩ-Quan Hoa-Kỳ trong khi đi theo với Giang-lực Việt-Nam, đă cho hay là thủy-thủ Việt-Nam tận-tụy và can-đảm, nhiều đơn-vị trong sông ng̣i Việt-Nam có nhiều kinh-nghiệm tác-chiến. Tuy vậy các bản báo-cáo này không được ai chú-ư tới... Khi gửi quân can-thiệp vào năm 1965, Hải-Quân Hoa-Kỳ vẫn chưa chuẩn-bị đầy đủ cho các chiến-trận trong kinh rạch và dọc vùng duyên-hải... Vào thời-điểm trực-tiếp tham-chiến rồi mà HQHK vẫn c̣n đánh giá quá thấp tầm quan-trọng huyết-mạch của các công-tác ǵn giữ an-ninh thủy-lộ.[242]

 

Giang-Đoàn Xung-Phong Hành-Quân

 

Năm 1965

            - Sau khi thất-bại trong ư-đồ xúi dục nhân-dân Miền Nam vào cuộc chiến-tranh khuynh-đảo, Cộng-Sản Bắc-Việt trực-tiếp dồn nỗ-lực trực-tiếp xâm-lăng Việt-Nam Cộng-Ḥa. Chúng lén lút gửi nhân-viên và chiến-cụ xâm-nhập miền Nam bằng đường biển. HQVNCH nỗ-lực ngăn-chặn chúng lại. Vào ngày 19-2-1965, Lực-Lượng ta và quân bạn đă đánh ch́m một tàu Bắc-Việt tại Vũng Rô, tịch-thu nhiều chiến-lợi-phẩm.

            - Qua nhiều biến-động chính-trị, t́nh-h́nh quốc-gia nguy-ngập; Quân-đội phải đứng ra lănh-đạo quốc-gia vào hôm 19-6-1965. Ngày đó được gọi là Ngày Quân-lực.

Quân-Lực từ đây được quy-định rơ-ràng 3 quân-chủng: Hải, Lục, Không-Quân. Chức Phụ-Tá Hải-Quân (cũng như Phụ-Tá Không-Quân) cạnh Tổng Tham-Mưu-Trưởng QL/VNCH bị hủy-bỏ. Vị Sĩ-Quan chỉ-huy quân-chủng Hải-Quân chính-thức là Tư-Lệnh Hải-Quân[243].

            - Tháng 7, Lực-Lượng Hải-Thuyền được cải-tuyển thành chủ-lực-quân. Các đội Hải-Thuyền được cải-danh thành các Duyên-Đoàn thống thuộc các Vùng Duyên-Hải (VZH). Số lượng ghe Hải-Thuyền từ con số 80 chiếc khởi đầu tăng lên đến 644 chiếc.

            Có 4 kiểu chiến-thuyền chính:

- ghe chỉ-huy (hay ghe chủ-lực[244]) chạy bằng máy GM-671 và bằng buồm

- ghe trợ-lực, nhỏ hơn ghe chủ-lực

- ghe máy (chỉ có máy)

- ghe buồm (chỉ có buồm[245])

 

 

Hải-Thuyền Kiên-Giang

 

 

Sự phối-trí Lực-lượng Hải-Thuyền dọc duyên-hải VNCH và Vị-trí các Duyên-Đoàn (ZĐ) vào năm 1965.

 

 

 

            Lúc này Hải-Lực có hai ngàn quân, kể cả Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Các LSIL và LSSL lưu-động tuần-tiễu trên sông Mekong. Một trong các Giang-Pháo-Hạm và Trợ-Chiến-Hạm này được biệt-phái cho Đặc-khu Rừng Sát. Ba LST và các LSM được sử-dụng để chuyên-chở quân-dụng. Một LSM được chỉnh-trang thành Bệnh-viện-Hạm với đầy đủ y-dụng. Hải-Lực tiếp-nhận thêm bốn Trợ-Chiến-Hạm (LSSL): Đoàn-Ngọc-Tảng HQ. 228, Lưu-Phú-Thọ HQ. 229, Nguyễn-Ngọc-Long HQ. 230, Nguyễn-Đức-Bổng HQ. 231.

            Lúc bấy giờ quân-số Hải-Quân tổng-cộng là 13 ngàn, kể cả Sĩ-quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Bảy Sĩ-Quan được gởi sang Hoa-Kỳ tu-nghiệp tại Naval Postgraduate School, ở Monterey, California.

            Cũng trong năm này, danh-từ Hải-Đoàn Xung-Phong được thay bằng Giang-Đoàn Xung-Phong (River Assault Group). Sáu trong bảy Giang-Đoàn này được trang-bị: 1 Soái-Đĩnh Commandement, 1 Tiền-Phong-Đĩnh Monitor, 5 Quân-Vận-Đĩnh LCM, 6 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP và 6 Tiểu-Giáp-Đĩnh FOM. Riêng Giang-Đoàn 27XP có 1 Soái-Đĩnh Commandement[246], 1 Tiền-Phong-Đĩnh Monitor, 6 Quân-Vận-Đĩnh LCM8 và 10 Tuần-Giang-Đĩnh (RPC - River Patrol Craft).

            Mỗi Giang-Đoàn có 150 người, gồm Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Giang-Đoàn 27XP có quân-số đông hơn, tới 200 người. Giang-Đoàn này có vận-tốc di-chuyển cao[247], có khả-năng đổ-bộ 6 chiến-xa Ontos hay 12 Thiết-Vận-Xa M113, thường được gửi đi tăng-cường cho các cuộc hành-quân lớn.

 

Hải-Quân đang tác-xa dọn băi để các LCM 8 đổ bộ các chiến-xa Ontos.

 

 

LCM 8 có thể chuyên-chở 2 chiến-xa loại Ontos này.

 

Công-tŕnh đáng nhớ: Kiến-trúc chiến-thuyền.

Những công-tŕnh nghiên-cứu hàng-hài cho biết rằng tiền-nhân chúng ta có tài trong việc kiến-trúc thuyền bè. Trống đồng Đông-Sơn gần 4,000 năm trước ghi khắc thuyền bè dân ta có trang bị bánh lái và cây xiếm. Những trang-cụ này chỉ bắt đầu xuất-hiện bên Âu-Châu vào thế-kỷ thứ 12. Nhiều tàu thuyền Âu-Châu trong các thế-kỷ trước đă chép rằng khi ngang qua bờ biển nước ta không may bị đắm, họ được dân ta cứu vớt, sửa chữa vỏ thuyền, dựng lại cột buồm… Họ rất ngạc-nhiên không những chỉ v́ ḷng hào-tâm[248] mà cả về khả-năng vượt bực của người Việt-Nam trong việc kiến-trúc thuyền bè, dù là tân-tạo những kiểu tàu thuyền Tây-phương xa lạ[249]… Hải-Quân VNCH và thường-dân Việt có dịp chứng-minh điều đó trong khi bành-trướng Lực-lượng Hải-thuyền.

            Như đă kể ở đoạn trên, từ con số 80 chiếc hải-thuyền vào đầu năm 1962, HQVN cần gia-tăng lực-lượng lên đến 644 chiếc. Khi nghiên-cứu các tài-liệu hồi đó, người ta thấy có những sự khác-biệt về đường lối điều-hành Việt-Mỹ. Nhiều chuyện phức-tạp về nhân-sự, ngân-quỹ, kỹ-thuật v.v… đă xảy ra.

Thế mà HQVN với sự cộng-tác của các hăng đóng tàu ghe điạ-phương đă hoàn-thành việc kiến-tạo:

- 440 chiếc hải-thuyền tại Phan-Thiết và Sài-G̣n.

- 61 chiếc chủ-lực tại các Thủy-Xưởng Hải-Quân.

- 40 ghe Kiên-Giang tại Rạch-Giá.

- c̣n lại 23 chiếc chủ-lực sau cùng được HQCX hoàn-tất.

            Nh́n chung, t́nh-trạng kỹ-thuật không được đồng đều. Các ghe chủ-lực tương-đối khá, các ghe Kiên-Giang được ghi nhận chịu đựng biển và nhảy sóng tốt. Nhưng các ghe phụ-lực khác bị ghi “không đạt tiêu-chuẩn”, có chiếc th́ gỗ đóng vỏ ghe bị ngót gây ra những kẽ nứt tới một hai centimètres. Sau vài tháng tuần biển, một số ghe phải tái-tạo (on recall) hoàn-toàn.

            Người ta hiều rằng công-tŕnh kiến-tạo một “hạm-đội” 644 chiến-thuyền không phải nhỏ. Trong t́nh-trạng thiếu-thốn khó-khăn thời ấy, nhiều nhà nghiên-cứu đă ngạc-nhiên là kế-hoạch hoàn-tất đúng hạn-kỳ. Đó là do nỗ-lực của nhiều người trong và ngoài Hải-Quân mà cũng là nhờ vào truyền-thống ghe-thuyền của dân Việt-Nam vậy.

            Điều ngạc-nhiên dành cho thế-hệ hậu-sinh khi biết rắng:

- Chương-tŕnh kiến-tạo khởi-sự cuối tháng 6-19625, mà phí khoản ước-tính không nhất-định. Đến tháng 8-1962 ngân-sách mới được thông qua.

- Quỹ chỉ cấp ra có 850,000 Mỹ-kim cho việc sản-xuất 501 chiến-thuyền, mà trong đó đă chiếm tới 61 chiếc Ch-lực.[250]

- Dù khó khăn nhưng khối nhân-lực vẫn tiến-hành không chậm trễ. Chỉ mấy tháng sau đó, loạt chiến-thuyền đầu-tiên ra khơi vào tháng 1-1963 và chiếc cuối cùng hoàn-tất vào tháng 5 cùng năm đó: 1963[251].

 

Như tiền-nhân Việt-tộc, HQVN sử-dụng những Thuyền Buồm có trang-bị Cây Xiếm truyền-thống từ thời Hùng-Vương/Đông-Sơn/Ḥa -B́nh (4,000 năm trước).

 

Chính-quy-hóa Giết chết nguồn T́nh-báo Địa-phương

            Ngay khi mới thành-lập, Quân-Đội QGVN đă từng ư-thức rằng t́nh-báo nhân-dân tại địa-phương là yếu-tố sinh-tử. Hải-Quân Việt-Nam tổ-chức Lực-Lượng Hải-Thuyền cũng với quan-niệm lănh-thổ. Đoàn-viên hải-thuyền kề cận với chiến-tranh chống du-kích. Đa-số họ là ngư-dân địa-phương. Họ thù ghét Cộng-Sảnvà trực-tiếp cầm súng bảo-vệ thôn làng, biển dă. Thu-phục nhân-tâm là chính, áp-dụng kỷ-luật là thứ yếu. Đó là cẩm nang thành-công của cấp chỉ-huy lực-lượng bán-quân-sự. Thoạt đầu, Lực-Lượng Hải-Thuyền mang tính-cách địa-phương-quân và t́nh-báo nhân-dân. Chủ trương chính-quy-hóa đă giết chết tinh-thần địa-phương và khả-năng thu-thập t́nh-báo. Nhiều đoàn-viên hải-thuyền đă đào-ngũ khi bị thuyên-chuyển khỏi địa-phương. Họ bị bứt ra khỏi xóm làng, môi-trường sinh sống quen thuộc nghịch với chiến-thuật chống-du-kích.

Thời-gian phục-vụ hải-thuyền rèn-luyện cho các Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVN những khả-năng hải-hành truyền-thống dựa theo hướng gió, cơn sóng, đối-vật thiên-nhiên thay v́ bằng các phương-tiện hàng-hải hiện-đại.[252]

 

Biến-Cố Vũng-Rô.

Cộng-Sản Bắc-Việt tăng-gia sự xâm-nhập nhân-viên và chiến-cụ bằng đường biển. HQVNCH và quân bạn đă dồn được một tàu Bắc-Việt xâm-nhập trong vùng biển Varella[253]. Sau đó tàu này bị phi-cơ Skyraider của Không-Quân Việt-Nam tấn-công 3 lượt trong vịnh Vũng Rô. Vào ngày 19 tháng 02 năm 1965, một Hải-Đoàn gồm có 2 Hộ-Tống-Hạm (HQ. 08 Chi-Lăng II và HQ. 04 Tụy-Đông) và một Hải-Vận-Hạm (HQ. 405 Tiền-Giang) đă thành-công trong việc đổ-bộ Biệt-kích lên gần chỗ chiếc tàu xâm-nhập bị bị mắc cạn trên băi cát.[254]

            Công cuộc lục-soát tiếp-tục đến ngày 24 tháng 2. Quân ta tịch-thu được một tổng-số vũ-khí và đồ tiếp-liệu tới trên 100 tấn, chia ra như sau:

- 3,600 súng trường và tiểu-liên

- hơn 1 triệu viên đạn

- hơn 1,000 trái lựu-đạn

- 250 kg thuốc nổ TNT với ng̣i nổ

- 2,000 viên đạn súng cối 82 ly

- 500 trái lựu-đạn chống chiến-xa

- 250 kg tiếp-liệu y-dược.[255]

Tài-liệu hải-hành tịch-thâu được cho biết những chiếc tàu này khởi-hành từ Hải-Pḥng, từng xâm-nhập miền Nam tiếp-tế vũ-khí cho Việt-Cộng nhiều chuyến.[256]

Để ghi-nhận chiến-công tiêu-diệt tàu xâm-nhập này, nhiều huy-chương đă được tưởng-thưởng cho các chiến-sĩ hữu-công. Riêng Thủy-Thủ-Đoàn Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ. 04 được tuyên-công đơn-vị đồng-minh US Navy Unit Commandation.[257] Ngay sau đó, Thủy-Thủ-Đoàn Hải-Vận-Hạm Tiền-Giang (HQ. 405) cũng được tuyên-công đơn-vị trước Quân-Đoàn.  

Biến cố Vũng Rô đă xác-quyết sự xâm-nhập vũ-khí và đồ tiếp-liệu của Cộng-Sản từ miền Bắc vào miền Nam.

 

 

Ảnh-Hưởng Biến-cố Vũng-Rô

Biến-cố Vũng-Rô gây những ảnh-hưởng lớn lao làm thay đổi kế-hoạch quốc-pḥng và ngoại-giao của VNCH. Ngay sau đó, chính-phủ Việt-Nam Cộng-Ḥa ban-hành một cuốn Bạch-Thư tuyên-cáo cùng quốc-tế về dă-tâm của chính-quyền Cộng-Sản Hà-Nội xâm-lăng Việt-Nam Cộng-Ḥa, đồng-thời kêu gọi thế-giới tự-do trợ-giúp phương-tiện để pḥng-thủ lănh-thổ.

Các chiến-lược-gia ư-thức rằng nếu miền Nam bị Hà-Nội thôn-tính th́ Cộng-Sản sẽ theo vết dầu loang, nhuộm đỏ hết khu-vực Đông-Nam-Á.[258]234 Những quốc-gia yêu chuộng tự-do như Phi-Luật-Tân, Thái-Lan, Đại-Hàn, Gia-Nă-Đại, Úc-Đại-Lợi, Hoa-Kỳ... ào ạt gửi nhân-viên và vật-dụng qua trợ-lực Việt-Nam Cộng-Ḥa.

 

Quyền-hạn của Cố-Vấn Hoa-Kỳ

            Đặc-biệt, vụ Vũng-Rô cũng đưa ra một chi-tiết tuy nhỏ nhưng rất quan-hệ đến tư-thế các Đơn-Vị-Trưởng Hải-Quân. Cũng theo đó, người ta thấy quyền-hành rất giới-hạn của Cố-Vấn Hoa-Kỳ:

Cựu Phó Đề-Đốc Hồ-Văn-Kỳ-Thoại, trong cuộc phỏng-vấn ngày 20 tháng 9 năm 1975, đă thuật lại những điều ông nhớ lại được về trận Vũng Rô. Khi đó Ông là Chỉ-Huy-Trưởng hành-quân, cấp-bậc HQ Thiếu-Tá. Ông kể như sau: "Các Sĩ-Quan Hoa-Kỳ chẳng có cố-vấn ǵ cho tôi cả. Chúng tôi đổ-bộ và tịch-thu được hơn 10 tấn vũ-khí đem lên chiến-hạm. Trong ngày cuối của cuộc hành-quân, có một cuộc tranh căi xảy ra giữa tôi và Thiếu-Tá Rodgers, vị Cố-Vấn-Trưởng này mới bay từ Nha-Trang tới... Ông ta hỏi tôi, tại sao Ông không làm thế này, tại sao lại làm khác, vv... và vv.. Bởi vậy, tôi mới nói: ''Nếu các anh c̣n chỗ ngồi trên trực-thăng, cảm phiền làm ơn đem ông Cố-vấn này về nhà dùm."[259]

            Theo truyền-thống Hải-Quân, dù Việt-Nam hay Hoa-Kỳ, quân-nhân cũng đều tôn-trọng quyền Hạm-Trưởng. Khi có sự bất-đồng ư-kiến giữa Hạm-Trưởng và Cố-Vấn, Hạm-Trưởng là người giữ trọng-trách nên nắm quyền quyết-định. Trong những vụ tranh-chấp, luôn-luôn ư-kiến Hạm-Trưởng được lắng nghe. Có khi Cố-Vấn báo-cáo xấu Hạm-Trưởng, nhưng chưa bao giờ chỉ v́ chuyện xích-mích này mà Hạm-Trưởng mất quyền chỉ-huy.

            Liên-hệ buồn vui giữa Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam và các Cố-Vấn đối-tác (Counterparts) như vậy cùng với quyền-uy của các Hạm-Trưởng Việt-Nam đă được viết thành sách[260]. Nói chung th́ trong Hải-Quân Việt hay Mỹ, tinh-thần “Sĩ-Quan Hải-Quân quư-phái, Officers and Gentlemen”, cũng như căn-bản kiến-thức cao đă làm mọi chuyện khó-khăn thành êm dịu.[261]

            Đặc-biệt do ư-thức và quan-niệm về danh-dự khác nhau giữa hai nền văn-hoá[262], đôi khi xung xát nổ lớn. Trường-hợp trên HQ. 613, lấy lư-do v́ danh-dự của một Sĩ-Quan thuộc-cấp, Hạm-Trưởng ép Cố-Vấn phải lập-tức rời tàu. Sau khi điều-tra xét xử, Hạm-Trưởng thắng. Để cho t́nh-trạng bớt căng-thẳng, chiến-hạm đă không có Cố-Vấn trong suốt nhiệm-kỳ chỉ-huy của Hạm-Trưởng.

Tại các đơn-vị nhỏ, chỉ có một Sĩ-Quan Hải-Quân Hoa-Kỳ. Ở các đơn-vị lớn, nhóm Cố-Vấn có thể thêm một vài Hạ-Sĩ-Quan hay Đoàn-Viên Hoa-Kỳ. Họ sinh-hoạt trong khu-vực Hạ-Sĩ-Quan hay Đoàn-viên Việt-Nam. Họ ăn ngủ như Việt-Nam, không có ưu-đăi hay thực-phẩm ǵ khác-biệt. Một chi-tiết rất tế-nhị mà Đại-Tướng Westmoreland đă nói đến trong tư-cách Cố-Vấn: Người Hoa-Kỳ luôn luôn dành phía danh-dự bên-phải cho Đơn-Vị-Trưởng Việt-Nam[263]. Trên Chiến-Hạm Việt-Nam đặc-biệt có nhiều-nghi-thức chào-kính hay tục-lệ Việt-Nam luôn-luôn được Sĩ-Quan HQHK tôn-trọng thi-hành.

Ở miền Bắc, Cố-vấn Nga Tàu theo quy-chế riêng. Các Cố-Vấn Trung-Cộng rất quan-liêu, hưởng rất nhiều ưu-đăi về phương-diện cư-trú, phục-dịch, hưởng đặc-táo...[264] Khi nghe tin này, người lính thủy HQVNCH không làm sao tưởng-tượng nổi t́nh-trạng chính-quyền Cộng-Sản Miền Bắc đă để mất danh-dự dân-tộc Việt-Nam như vậy lại xẩy ra.

 

Năm 1966

Ngày 1-1-1966, Bộ-Chỉ-Huy Hải-Lực được cải-danh thành Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Hạm-đội được chia ra làm hai Hải-Đội:

- Hai-Đội 1 Tuần-Dương

- Hải-Đội 2 Chuyển-Vận

Hải-Lực tiếp-nhận một số chiến-hạm: Một Hộ-tống-hạm PCER: HQ. 12 Ngọc Hồi, và bốn Tuần-duyên-hạm PGM: HQ. 612 Thái B́nh, HQ. 613 Thị Tứ, HQ. 614 Song Tử chuyển-giao vào tháng 1 năm 1966, và HQ. 615 Tây Sa vào tháng 11.

            - Đại-tướng Cao-Văn-Viên tạm-thời kiêm-nhiệm chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam trong hai tháng 8 và 9 năm 1966. Rồi Hải-Quân Trung-Tá Trần-Văn-Chơn đang làm Chỉ-Huy-Trưởng Tuần-Giang lại được đưa về Hải-Quân. Ông thăng-cấp Đại-Tá và nắm quyền Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam[265] kể từ ngày 31 tháng 10 năm 1966.

            - Sau một giai-đoạn khủng-hoảng chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân từ cuối thời Đề-Đốc Cang, qua Tướng Khang, qua Đại-Tá Phấn qua Đại-Tướng Viên, nay Hải-Quân mới có thời-gian ổn-định dưới quyền Tư-Lệnh Chơn để bành-trướng mạnh.

 

 

Đại-tướng Cao-Văn-Viên

 

Khủng-hoảng trong Chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân

            Khi HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền nắm quyền Tư-Lệnh HQVN, yếu-tố chính-trị lần đầu ảnh-hưởng mạnh đến Hải-Quân[266]. Đại-Tá Quyền chết v́ trung-thành với Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm, không ủng-hộ phe đảo-chính. Ông đă bị một thuộc-cấp hạ-sát.[267]

Thay thế Đại-Tá Quyền, HQ Trung-Tá Chung-Tấn-Cang thăng-cấp Đại-tá, rồi Phó Đề-Đốc[268], rồi Đề-Đốc rất nhanh (vào năm 1965). Ngày 8 tháng 4 năm 1965, Đề-Đốc Cang bị 3 vị Chỉ-huy Lực-Lượng và nhiều-Đơn-Vị-Trưởng tố-cáo có liên-hệ đến những vụ điều-hành một cách bất-hợp-pháp đoàn thương-thuyền. Tất cả hai phe đều bị ngưng-chức để điều-tra. Tướng Lê-Nguyên-Khang, TL/TQLC được tạm-thời Xử-Lư Thường-vụ Chức-Vụ TL/Hải-Quân. Rồi HQ Đại-Tá Trần-Văn-Phấn, vị Tham-Mưu-Trưởng của Đề-Đốc Cang lên Quyền Tư-Lệnh. Đại-Tá Phấn cũng không ở lâu. Các Sĩ-Quan liên-hệ tới cuộc lật đổ Đề-Đốc Cang đều trở lại chức-vụ trừ vị Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực.

Trong giai-đoạn này, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QLVNCH chỉ-định HQ Trung-Tá Nguyễn-Đức-Vân làm Tư-lệnh. Tuy Ông Vân bất-tuân thượng-lệnh không nhậm-chức nhưng v́ lầm lẫn sao đó, các ấn-bản của Jane's Fighting Ships 1967, 1968, 1969 đều ghi tên Ông Nguyễn Nức Vân (đánh máy sai tên Nguyễn-Đức-Vân) là Tổng-Tư-Lệnh (Commader-in-Chief). Cũng trong trang đó, Jane's Fighting Ships lai ghi tên các Ông Trần-Văn-Phấn và Trần-Văn-Chơn là Tư-Lệnh Hải-Quân CNO (Chief of Naval Operations).[269]

            Sự khủng-hoảng Chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân kéo theo nhiều-mất mát quan-trọng khác về nhân-sự. Nhiều-Sĩ-Quan thâm-niên có khả-năng phải biệt-phái các cơ-quan ngoài Hải-Quân[270]. Ngày 8-9-1966, Đại-Tướng Cao-Văn-Viên, đương-kim Tổng Tham-Mưu-Trưởng QLVNCH, kiêm-nhiệm luôn chức-vụ TL/ Hải-Quân. Hải-Quân vốn từ khi thành-lập, không phải là một thành-viên cao-cấp trong Hội-đồng Quân-Lực, nay tuy không có Đô-Đốc Tư-Lệnh nhưng lần này, ít nhất Hải-Quân có chút tiếng nói của ḿnh tại Hội-đồng đó. Đại-tướng Viên t́m người thay-thế và HQ Trung-Tá Trần-văn-Chơn được đề-bạt vào chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.

 

Sai-lầm lớn của Chính-phủ Mỹ

            Hoa-Kỳ lập-quốc nhờ đánh bại chính-quyền thuộc-địa của người Anh tại Bắc-Mỹ. Hoa-Kỳ cũng thực-dân, theo chân Anh, Pháp, Tây-Ban-Nha một thời-gian nhưng từ-bỏ chính-sách thuộc-địa rất sớm. Người Hoa-Kỳ có lư-tưởng cao-quư là luôn-luôn tranh-đấu cho Tự-Do, giúp-đỡ các dân-tộc khác chận đứng độc-tài Cộng-Sản. Tuy vậy tại Việt-Nam, chính-quyền Mỹ đă sai-lầm trong chính-sách. Thay v́ trợ-giúp phương-tiện, họ đă nhúng ta can-thiệp khiến t́nh-thế Việt-Nam Cộng-Ḥa thêm suy đồi. Các chính-phủ liên-tiếp nhau từ thời John F. Kennedy không nghe theo những khuyến cáo của nhiều-thức-giả. Những tiết-lộ sau cuộc chiến cho biết có rất nhiều-đề-nghị quan-trọng của cơ-quan T́nh-Báo Trung-Ương Hoa-Kỳ CIA[271] cũng bị bỏ qua. Cuối cùng khi biết ḿnh đă thất-bại không thắng được, họ ra rút chân ra làm sụp đổ tất cả những ǵ mà người Việt Quốc-gia đă xây-dựng được.

            Các giới-chức Việt-Mỹ trong chính-phủ, dân-sự cũng như quân-sự đă từng lên tiếng chỉ-trích[272] và đề-nghị biện-pháp thay đổi chính-sách, chiến-lược, chiến-thuật ngay từ những năm đầu của thập-niên 1960. Khi làm việc tại Việt-Nam, Tướng Taylor đă phản-đối quyết-liệt dự-tính đổ-bộ quân Mỹ vào Việt-Nam ngay từ đầu thập-niên 1960. Vào năm 1965, tướng Taylor nói như sau:

"Quân-nhân da (mặt) trắng được trang-bị và huấn-luyện theo phương-cách không thích-hợp (chút nào) cho cuộc chiến-tranh chống du-kích tại các vùng rừng núi Á-Châu. Người Pháp đă từng nỗ-lực thích-nghi lực-lượng của họ trong nhiệm-vụ đó và đă thất-bại. Tôi rất nghi ngờ rằng Quân-lực Hoa-Kỳ có thể làm tốt hơn họ nhiều được.

.. Sau hết, một câu hỏi đă có từ lâu (mà vẫn không có câu trả lời) là làm thế nào một người lính ngoại-quốc lại có thể phân-biệt được một tên Việt-Cộng với một người nông-dân Việt-Nam ở phía chúng ta. Khi nh́n ra hàng loạt những khó-khăn (tương-tự như vậy), tôi nghĩ răng chúng ta phải thay đổi chính-sách và giữ cho những lực-lượng bộ-chiến của Hoa-Kỳ không nên trực-tiếp tham-chiến trong cuộc chiến chống nổi dậy.” [273]

 

Chuyện đáng nhớ: 12 Đô-Đốc và 1 Tướng làm việc chung

            Ai cũng biết ḍng dơi danh-tướng của Đô-Đốc Ulysses S. Grant Sharp, Tư-lệnh các Hạm-Đội HQHK tại Thái-B́nh-Dương (1963 - 1964) và Tổng Tư-Lệnh Lực-Lượng Hoa-Kỳ tại Thái-B́nh-Dương (1964 - 1968). Ông là con cháu của Tổng-Thống Ulysses Grant, vị Đại-tướng góp công lớn chiến-thắng cuộc chiến Nam Bắc, thống-nhất quốc-gia Hoa-Kỳ.[274]

Là Sĩ-Quan HQHK cấp Đô-Đốc có trách-nhiệm liên-hệ lâu dài nhất đến chiến-tranh Việt-Nam. Ngay từ đầu khi nhậm-chức, Đô-Đốc Sharp thấy rằng phải hành-động quyết-liệt ngay. Ông muốn lập-tức phong-tỏa Bắc-Việt đồng-thời dốc toàn-lực tiêu-diệt Cộng-Quân ở miền Nam. Đề-nghị không được chấp-thuận, Đô-Đốc Sharp rất bất-b́nh với kế-hoạch "leo thang chiến-tranh, tră đũa thụ-động có tính-toán" của chính-phủ Hoa-Kỳ. Ông viết ra nguyên một cuốn sách rất nổi-tiếng, cuốn "Strategy for Defeat". Nhan-đề cuốn sách tuy ngắn gọn nhưng đă nói lên tất cả nội-dung của nó: Chiến-lược (như thế này sẽ chỉ đưa đến) bại-trận (mà thôi!)[275]. Làm thế nào mà thắng trận được nếu như quân-đội đồng-minh không chủ-động tấn-công và luôn-luôn thụ-động, chỉ được gia-tăng áp-lực khi địch đánh-phá ḿnh?!

Trong cuốn sách "In Retrospect. The Tragedy and Lessons of Vietnam", Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng Hoa-kỳ Robert S. McNamara hồi-tưởng rằng sau nhiều biến-chuyển (xấu) xảy ra ít lâu, Ông suy-nghĩ rất nhiều, có lúc đă nghĩ rằng Ông đáng lẽ phải bị cách-chức (get fired). Cuối cùng McNamara phải quyết-định nạp đơn từ-nhiệm.[276] McNamara thấy hối-hận v́ đă chỉ-đạo sai lầm cuộc chiến, bỏ ngoài tai những khuyến-cáo của chính những người phụ-tá và lời đề-nghị của một số thức-giả thời đó.

Khi tham-khảo chiến-sử Hoa-Kỳ, nhiều-người thông-cảm cho nỗi thất-vọng của Đô-Đốc Sharp. Một số khác đă bỏ quên một biến-cố mà khi các quân-nhân Hải-Quân đọc tới th́ khó mà quên được. Chính Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng McNamara cũng có biết rơ câu chuyện này.

Đó là Bản Tường-tŕnh của “Ủy-Ban Đánh Giá T́nh-H́nh Việt-Nam” có tên là “Navy Vietnam Appraisal Group” năm 1967. Những Sĩ-Quan HQHK liên-hệ tới gồm có Cựu Đề-Đốc Eugene J. Carroll, Đề-Đốc Gene R. LaRocque cùng 10 vị Tướng Hải-Quân và 1 Tướng Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-kỳ. Ủy-Ban thành-lập theo chỉ-thị của Bộ-Trưởng Hải-Quân Paul Nitze với một thành-phần quy-tụ đông đảo các ngôi sao uy-tín dang lên (carreer on fast track) như chưa từng có trong cuộc chiến. "Quần-tinh" này đích-thân thu-thập mọi yếu-tố, duyệt-xét các kế-hoạch, gặp gỡ, hỏi han tận nơi những người lính và nhân-viên thấp nhất; phỏng-vấn chức-quyền trách-nhiệm tham-mưu và chiến-trường, khảo-sát tận chỗ trong đất liền và ngoài biển cả, ở Hoa-Kỳ cũng như tại Việt-Nam. Ủy-ban (cộng lại là 25 ngôi sao) làm việc liên-tục suốt 6 tháng trời ḍng dă. Kết-luận của Bản Tường-tŕnh “25 ngôi sao” là một thứ chuông cấp-báo sự lâm-nguy: Những biện-pháp đang thi-hành không thể tạo nên chiến-thắng.[277]

            Người ta biết rằng tiếp theo cuộc khảo-sát này ít tháng, Hà-Nội mở cuộc Tổng Tấn-Công Tết Mậu-Thân vào đầu năm 1968. Như vậy, cho dù Bản Tường-tŕnh của "Vietnam Appraisal Group” này có làm cho những nhân-vật điều-hành chiến-tranh tỉnh-ngộ, nó cũng đă ra đời hơi trễ: v́ áp-lực phản-chiến, Hoa-kỳ rút quân ra vào cuối năm 1968.

 

Tại sao và Năm Người Im-Lặng

            Không phải chỉ đến lúc này (năm 2002), chúng ta mới biết những sai-lầm của kế-sách Mỹ trong chiến-tranh Việt-Nam. Người ta đă biết rơ hậu-quả thất-bại khi lực-lượng can-thiệp chưa lên đến mức tối đa (1963 - Giữa 1965). Những câu hỏi tại sao đă được đặt ra nhiều lần: “Đă biết là sai-lầm mà c̣n làm, Tại sao?”

Tại-sao Tổng-Thống Johnson lại chỉ-đạo một chiến-lược nửa chừng? Leo thang theo áp-lực th́ đâu có chiến-lược ǵ! Hoa-kỳ là một nước dân-chủ tiền-tiến với tổ-chức ba ngành lập-pháo, tư-pháp, hành-pháp hoạt-động hữu-hiệu; tất phải có nhiều ngườ́ trách-nhiệm. Đến khi Quân-lực nhận trách-nhiệm thi-hành, các giới chức Chỉ-huy Quân-lực có phải đă mù-quáng không?

H.R. McMaster khi nghiên-cứu việc này, nhận thấy tinh-thần trách-nhiệm là vấn-đề chính. Tác-giả tŕnh-bày quan-điểm của Ông qua một cuốn sách nhan-dề rất dài "Trốn-trách Nghĩa-vụ: Lyndon Johnson, Robert McNamara, Bộ Tham-mưu Liên-quân, và Dối Trá đưa đến kết-quả (thất-trận tại) Việt-Nam". Là một quân-nhân, tác-giả McMaster đặc-biệt nhấn mạnh là nên bỏ mấy chính-trị gia ra ngoài hậu-xét, mà phải ghi-nhận trách-nhiệm nặng nề nhất thuộc về "5 Người Im lặng."[278]  Đó là Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân và 4 Vị Tư-Lệnh Quân-chủng đă lặng thinh, để mặc cho các bạn đồng-đội của ḿnh hy-sinh một cách vô-ích hay sao?[279]

 

Hải-Quân Hoa-Kỳ Trực-tiếp Tham-chiến tại Việt-Nam (1966-1969)

Tuy chính-sách chính-phủ Hoa-Kỳ bất nhất như vậy, nhưng từ năm 1966 đến năm 1969, cả Lục-Quân, Không-Quân lẫn Hải-Quân Hoa-Kỳ đều trực-tiếp đổ vào tham-chiến tại Việt-Nam.

Ngày 1 tháng 4 năm 1966, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam - COMNAVFORV Commander U.S. Naval Forces, Vietnam - được thành-lập tại Sài-G̣n để chỉ-huy các đơn-vị Hải-Quân Hoa-Kỳ hoạt-động tại Việt-Nam.[280]

 

Huy-Hiệu Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam

 

Các Lực-Lượng chính gồm có:

- Lực-Lượng Tuần-Duyên: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 115 (Coast surveillance force: Task Force 115).

- Lực-Lượng Tuần-giang: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 116 (River patrol force: Task Force 116).

- Giang-lực Thủy-Bộ: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 117 (River assault force: Task Force 117 hay Mobile Riverine Force).

Các lực-lượng này phối-hợp với các thành-phần Lục-Quân hay Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ để hành-quân trong sông ng̣i..

 

Schematic Diagram of Mobile Riverine Force Operational Concept in Action! 

Quan-niệm Hành-Quân của Mobile Riverine Force – Sơ-đồ mẫu.

 

Tư-Lệnh Lực-Lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam cũng chỉ-huy các cơ-sở yểm-trợ gồm:

- Cơ-sở Tiếp-Vận Hải-Quân (Naval Support Activity NSA).

- Cơ-quan Cố-Vấn Hải-Quân.

- Đoàn Ong Biển (Seebees[281]) thuộc Liên-Đoàn Công-Binh Xây Cất Hải-Quân. (3rd Naval Constraction Brigade).

- Pḥng Chuyển-Vận Bằng Đường Biển của Quân-Đội Hoa-Kỳ tại Việt-Nam MSTS (Military Sea Transportation Office Việt-Nam).

- Phi-Đoàn Trực-Thăng Vơ-trang và Phóng-Pháo (gồm 35 chiếc trực-thăng vơ-trang Seawolf và 15 Phóng-pháo-cơ Bronco OV10).

- Liên-Đoàn Người Nhái (SEAL).

            Với những phương-tiện thật dồi-dào, Hải-Quân Hoa-Kỳ thành-lập ngay Phi-Đoàn 3 Trực-Thăng vơ-trang (Helicopter Attack Light Squadron 3) tại Vũng Tàu để yểm-trợ cho Lực-Lượng 116 về phi-pháo, quan-sát và tản-thương. Cho đến tháng 9 năm 1968, Phi-Đoàn này tăng-phái thường- xuyên một Phi-Đội (2 trực-thăng) cho các nơi sau: Nhà Bè, B́nh Thủy, Đồng Tâm, Rạch Giá, Vĩnh Long và trên 3 Dương-Vận-Hạm thả neo trên sống Cửu Long. Các Trực-thăng Vơ-trang được trang-bị các dàn phóng hỏa-tiễn 2.75 inches, đại-liên 50, và trung-liên M60 v.v...là một loại phi-cơ yểm-trợ rất hữu-hiệu cho loại hành-quân này. Về sau, Phi-Đoàn được tăng-cường thêm 15 Phóng-pháo-cơ Bronco OV10. Phi-cơ này được trang-bị từ 8 đến 15 hỏa-tiễn 5 inches, và 19 hỏa-tiễn 2.75 inches, 4 trung-liên 60 và 1 đại-bác 20 ly.[282]

 

 

Phóng-pháo-cơ Bronco OV10.

 

Thành-quả của Công-tác Tuần-duyên

Có những con số ước-lượng khác nhau về mức-độ xâm-nhập bằng đường biển của Cộng-Sản Bắc-Việt. Tỷ-lệ cao nhất đă ước-lượng có tới trên 80 phần trăm số quân-dụng của Cộng-Sản miền Nam được chuyển bằng đường biển trong những năm đầu của cuộc chiến. Đại-tướng William C. Westmoreland cho biết số lượng trưng-binh lớn lao là 80% trước 1965 đă được hạ xuống một con số nhỏ bé 10% vào cuối năm 1965 nhờ vào kế-hoạch tuần-dương hỗn-hợp.[283]

            Theo báo-cáo của Hải-Quân Hoa-Kỳ, Trục-Lôi-Hạm MSO và Khu-Trục-Hạm DER[284]260 là hai loại chiến-hạm được dùng đầu-tiên để tuần-tiễu viễn-duyên ở Việt-Nam. Sau năm đầu sử-dụng, họ rút đi Trục-Lôi-Hạm MSO v́ khả-năng không thích-hợp và v́ thiếu hẳn Hải-pháo yểm-trợ. Riêng Khu-Trục-Hạm DER hiện-diện liên-tục từ 1963 đến những ngày chót của HQHK tại Việt-Nam. Hai chiếc loại này đă được chuyển-giao cho Hải-Quân Việt-Nam trở thành HQ. 1 và HQ. 4.

 

H́nh-ảnh Trục-Lôi-Hạm MSO của HQHK

 

            Theo W. J. Moredock[285] và Harold W. Seagal[286], DER chính là xương sống của Lực-Lượng Task Force 115. Trung-Tâm Chiến-Báo (TTCB - CIC: Combat Information Center) của chiến-hạm được trang-bị tối-tân không thua ǵ CIC của Tuần-Dương-Hạm Cruiser, loại chiến-hạm hùng-hậu nhất của Market Time. Đă có đề-nghị xin biến cải DER thành Khu-Trục-Hạm Tuần-thám Cấp-cứu (DESR - Destroyer Surveillance Rescue). DERS sẽ được trang-bị thêm một Trực-thăng hoạt-động mọi thời-tiết Kaman UH-2A Seasprite. Băi đáp và nhà chứa phi-cơ thiết-trí phía sau lái.

Sau này khi có chiến-hạm WHEC của Lực-lượng Tuần-Duyên Hoa-Kỳ tham-chiến. lại có báo-cáo khác như sau: loại DER nhanh hơn, dễ vận-chuyển hơn chiếc WHEC chậm chạp và nặng-nề. Nhờ sân tàu đằng lái thấp, nhân-viên DER dễ dàng khám-xét ghe thuyền.

 

 

DER là xương sống của Lực-Lượng Task Force 115 tuần-tiễu Biển Đông.


 

Chương 4

 

Giai-đoạn bành-trướng

(1967-1972)

 

Năm 1967

            Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa đi vào giai-đoạn bành-trướng khi nhu-cầu tác-chiến gia-tăng trong khi quân-đội Hoa-kỳ và đồng-minh t́m cách rút chân ra khỏi Việt-Nam.

            - Tháng 5 năm 1967, lần đầu-tiên Giang-Lực được gửi đi hoạt-động ngoài khu-vực châu-thổ Nam-phần. Giang--Đoàn 32 Xung-Phong được mang ra Thuận-An, Thừa-Thiên để hoạt-động trong vùng hạ-lưu sông Hương và cũng để yểm-trợ cho Sư-Đoăn 1 Bộ-Binh.[287]

            - Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa - với quân-số gần chín ngàn Sĩ-Quan, 27 ngàn Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-viên - là một lực-lượng Hải-Quân lớn vào hàng thứ 14 trên toàn thế-giới.

            Hải-Lực nhận thêm 4 PGM, HQ. 616 Hoàng-Sa, HQ. 617 Phú Quí, HQ. 618 Ḥn Tróc, và Thổ Châu HQ. 619.[288]

            - Ngày 15 tháng 7 năm 1967, tàu số 459 của Cộng-Sản Bắc-Việt bị đánh đắm tại Cửa Sa-Kỳ. Trong khi bị theo dơi ngoài khơi Mùi Ba Làng An, Quảng-Ngăi; chiếc tàu đă xóa số hiệu thay bằng số 411 trong đêm 13 tháng 7. Khi bị chận lại tra xét, tàu xâm-nhập đă bắn trả chiến-hạm tuần-tiễu nên bị hải-pháo Việt-Mỹ bắn cháy và nổ tung. Tuy bị nổ tung, nhưng trong số khoảng 90 tấn vũ-khí trên tàu, lực-lượng trục-vớt vẫn c̣n lấy được tới 1200 súng đủ loại và rất nhiều đạn dược.[289]

            - Một chiến-công nữa đáng đề-cập đến trong năm 1967 là trận đột-kích của Người Nhái HQVNCH phối-hợp với HQHK vào mật-khu Ḥn Hèo ngày 2 tháng 7 năm 1967. Chỉ có hai nhóm Người Nhái dùng xuồng cao-xu đổ-bộ từ ngoăi khơi vào một vị-trí ở phiá Tây của Núi Binh-Nhơn trên đảo Ḥn Hèo, quân ta nhờ bất ngờ đă bắn hạ được 2 Cán-bộ Cộng-Sản cấp Huyện-Ủy và bắt sống hai tên khác. Nhờ tài-liệu tịch-thu được tại mật-khu này, Cơ-quan An-ninh đă phá tan được một loạt các cơ-sở nằm vùng của chúng tại Nha-Trang và Khánh Ḥa. Hoạt-động đặc-công Việt-Cộng suy-giảm hẳn trong vùng này.

            - Tại Vùng 1 Duyên-Hải (V1ZH), hoạt-động phối-hợp của HQVN và đồng-minh gây nhiều-thất-bại cho địch. Quân Cộng-Sản cố-gắng phản-công.

Một trong những khu-vực chúng cần kiểm-soát hoàn-toàn, đồng-thời cũng để lấy lại uy-thế với dân là vùng cửa sông Quảng-Ngăi. Đêm 6 rạng ngày 7 tháng 8 năm 1967, hai Tiểu-Đoàn Việt-Cộng đồng-loạt tấn-công Duyên-Đoàn 16. Mục-đích của chúng là tiêu-diệt cứ-điểm quan-trọng này đă không hoàn-toàn thành-công. Duyên-Đoàn-Trưởng là HQ Trung-Úy Nguyễn-Ngọc-Thông bị tử-trận và căn-cứ bị địch tràn ngập. Chiến-hạm, chiến-đĩnh của ta cùng các đơn-vị bạn đă phản-công mau chóng. Địch phải rút lui sau ít giờ giao-tranh và quân ta tái-chiếm lại căn-cứ.[290] 

Duyên-Đoàn 16 nằm về phía Nam của cửa Sông Trà-Khúc (Quảng Ngăi).

.

Nới rộng Vùng Tuần-Dương

Theo Đạo Dụ thành-lập Hải-Quân năm 1952 và các văn-kiện liên-hệ quy-định, nhiệm-vụ HQVN bao gồm công-tác canh-pḥng và kiểm-soát miền duyên-hải, hải-đảo cùng các thủy-lộ nội-địa. Với phương-tiện cơ-hữu nghèo nàn, lại phải kiểm-soát an-ninh vùng duyên-hải dài hơn 1,200 cây số, Hải-Quân Việt-Nam đă cố-gắng nhưng rơ-ràng là không có đủ khả-năng.

            Trong nỗ-lực trợ-giúp HQVN đủ khả-năng kiểm-soát duyên-hải, năm 1965, HQHK thành-lập Lực-Lượng Duyên-Pḥng mang số 115 -TASK FORCE 115. Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng - CTF-115 (Commander Task Force) đồn-trú tại CamRanh.

Cuộc hành-quân tuần-tiễu Biển Đông của Hải-Quân Mỹ và Hải-Quân VN phối-hợp được đặt tên là: Market Time. Lúc đầu, Hải-Quân VN đảm-trách tuần-tiễu cận-duyên (Inner Barrier). Hải-Quân Mỹ đảm-trách 8 vùng tuần-tiễu viễn-duyên (Outer Barrier). Các Chỉ-huy-Trưởng Vùng Duyên-Hải kiêm-nhiệm chức-vụ CHT Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm đảm-trách tuần-tiễu cận-duyên (inner barrier).

Duyên-hải VNCH được chia thành 51 khu cận-duyên. Sau khi Cộng-Sản lợi-dụng khu-vực Cảng Sihanoukville làm đầu cầu xâm-nhập đường biển, Hải-Quân Việt-Mỹ quyết-định thiết-lập thêm 1 vùng viễn-duyên thứ 9 tại khu-vực phía Tây V4DH vào đầu năm 1970. Có thêm 3 khu cận-duyên bên trong vùng viễn-duyên này được thành-lập thêm cho phù-hợp. Việc phân-chia 9 vùng viễn-duyên và 54 khu cận-duyên tiếp-tục từ 1970 đến 1975.

 

 

Mạng lưới Kiểm-soát Duyên-Hải VNCH với 9 Vùng Viễn-Duyên và các Vùng Cận-Duyên phụ-thuộc

 

 

Cao-điểm của các Giang-Đoàn Xung-Phong

Khởi đi từ mấy chiếc tiểu-đĩnh nhỏ bé cũ kỹ vào tháng 4 năm 1953, các Giang-Đoàn Xung-Phong lớn mạnh đến mức tối-đa sau 15 năm hoạt-động. Vào đầu năm 1968, tổng-số lên tới 13 Giang-Đoàn. Ngoài 12 Giang-Đoàn hoạt-động tại Nam-phần, một Giang-Đoàn ở Trung-phần. Đó là Giang-Đoàn 32 XP, lúc thành-lập dự-trù đi cặp với GĐ 26XP tại Long-Xuyên, v́ nhu-cầu hành-quân nên hoạt-động biệt-lập với các Giang-Đoàn Xung-phong bạn khác.

Tuy các Giang-Đoàn cũng hay di-chuyển nhiều-nơi, nhưng những căn-cứ chính đóng tại các địa-điểm sau:

GĐ21XP đồn-trú tại Mỹ Tho

GĐ22XP đồn-trú tại Nhà Bè, gần Sài-G̣n

GĐ23XP đồn-trú tại Vĩnh Long

GĐ24XP đồn-trú tại Tân An

GĐ25XP đồn-trú tại Cần Thơ

GĐ26XP đồn-trú tại Long-Xuyên

GĐ27XP đồn-trú tại Sài-G̣n, Mỹ-Tho và Lưu-đông

GĐ28XP đồn-trú tại Sài-G̣n

GĐ29XP đồn-trú tại Cần Tho

GĐ30XP đồn-trú tại Sài-G̣n

GĐ31XP đồn-trú tại Vĩnh Long

GĐ32XP đồn-trú tại Thừa-Thiên

GĐ33XP đồn-trú tại Mỹ Tho

            Vai tṛ "độc-diễn" của Giang-Đoàn Xung-phong mờ nhạt một phần khi các Lực-Lượng mới với những Giang-đĩnh tối-tân hơn xuất-hiện và tham-chiến. Các Tiểu-Giáp-Đĩnh TCAN/FOM của GĐXP danh-tiếng thời xưa đă quá già nua. Thay thế cho nó là loại Tuần-Giang-Đĩnh RPC, tuy chạy nhanh hơn nhưng không thích-hợp khi tác-chiến trong các kinh rạch nhỏ bé khắp nơi.

 

Nhu-cầu mới: Giang-Đĩnh có Vận-tốc cao

            Nhu-cầu chiến-trường đ̣i-hỏi những giang-đĩnh có vận-tốc cao mà các giang-đĩnh Việt-Nam lúc đó, theo các cơ-quan T́nh-báo Mỹ th́ di-chuyển quá chậm chạp.[291]

            Miền Nam Việt-Nam (Vùng 3 và 4 Sông-Ng̣i) có hệ-thống kinh rạch dài 5,555Km (khoảng 3,000 hải-lư - Nautical Miles) chằng-chịt như mạng nhện, nên việc tổ-chức các cuộc tuần-tiễu ngăn-chặn, phục-kích hay hành-quân truy lùng để tiêu-diệt địch hết sức phức-tạp; mang tính-chất đặc-thù của một " Brown-Water-Navy ". Chính Đại-Tá Burton B. Witham, Tư-Lệnh Lực-Lượng Đặc-nhiệm 116 Hảỉ-Quân Hoa-Kỳ cũng đă thừa-nhận những khó-khăn trở ngại mà họ đă vấp phải khi thi-hành nhiệm-vụ trên " địa-h́nh bát-quái" (Eight sign terrain) này. Theo ông ta, giang-đĩnh thích nghi phải là loại có tốc-độ cao, vận-chuyển xoay đầu 180 độ dễ-dàng trong kinh rạch chật hẹp, và hỏa-lực thực hùng-hậu trấn-áp được đối phương để vượt qua thủy-tŕnh quá nhỏ mỗi khi bị phục-kích. Riêng tại vùng biên-giới Việt-Miên tỉnh Châu-Đốc, Giang-Tốc-Đĩnh PBR (Patrol Boat River) được xem là thích-ứng nhất.[292]

 

 

Giang-Tốc-Đĩnh PBR (Patrol Boat River) được xem là rất hửu-hiệu trong việc tuần-giang. (Tranh vẽ của Họa Sĩ Vũ Khai Cơ - Úc Châu).

 

Cuộc hành-quân đổ-bộ Deck House V/Sóng Thần

Vào tháng 1/67, Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam có dịp hoạt-động phối-hợp với Hải-Quân Hoa-Kỳ trong cuộc hành-quân Deck House V/Sóng Thần tại Mật-khu Thạnh Phong, Cù-lao Thạnh Phú thuộc tỉnh Kiến Ḥa.

            Tổ-chức Lực-Lượng của Chiến-Đoàn B Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam gồm có:

* Bộ Chỉ-Huy Chiến-Đoàn: Chiến-Đoàn-Trưởng, Trung-Tá Tôn Thất Soạn.

* 3 Tiểu-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến gồm:

- Tiểu-Đoàn 3 Thủy-Quân Lục-Chiến: Tiểu-Đoàn-Trưởng, Thiếu-Tá Nguyễn Thế Lương

- Tiểu-Đoàn 4 Thủy-Quân Lục-Chiến: Tiểu-Đoàn-Trưởng, Thiếu-Tá Nguyễn Thành Trí

- Tiểu-Đoàn 6 Thủy-Quân Lục-Chiến: Tiểu-Đoàn-Trưởng, Thiếu-Tá Phạm-Văn-Chung.

* Một pháo-đội 105 ly.[293]

Lực-Lượng Đặc-nhiệm Thủy-Bộ của Hải-Quân Hoa-Kỳ đă cung-cấp tàu để chuyển quân, từ vùng tập-trung Vũng Tàu đến vùng đổ-bộ Kiến Ḥa. Đơn-vị Thủy-xa của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ chở các Đại đội Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam tiến chiếm các băi đổ-bộ làm đầu cầu. Trực-thăng của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ trực-thăng-vận vào các mục-tiêu sâu trong đất liền. Hải-pháo và phi-pháo yểm-trợ khi cần. Vùng hành-quân của Chiến-Đoàn B Thủy-Quân Lục-Chiến:

 

 

H́nh-ảnh quen-thuộc của một cuộc đổ-bộ Thủy-Xa TQLC

 

Mật-khu Thạnh Phong, Cù-lao Thạnh Phú thuộc tỉnh Kiến Ḥa nằm trong lănh-thổ Quân-Đoàn 4, Quân-Khu 4. Đây là một vùng śnh lầy ngập nước, sông rạch chằng chịt, dân-cư thưa thớt. Lợi-dụng địa-thế hiểm-trở, Việt-cộng đă lập các Công-binh-xưởng, căn-cứ hậu-cần, và địa-điểm trú quân cho các đơn-vị của chúng. V́ địa-thế hiểm-trở, và không đủ phương-tiện yểm-trợ nên Vùng 4 ít khi tổ-chức hành-quân vào mật-khu Thạnh Phong này.

Tuy cuộc hành-quân không mang lại chiến-thắng lớn hoặc thành-quả quân-sự nào đáng kể v́ không đụng lực-lượng Cộng-Quân, nhưng nó đă nổi bật với những yếu-tố sau đây:

1. Trong cuộc chiến-tranh Việt-Nam, đây là một cuộc hành-quân đổ-bộ duy nhất của một Chiến-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam với đầy đủ tầm vóc, chuyên-môn, hiện đại của một binh-chủng Thủy-Quân Lục-Chiến.

2. Các cấp chỉ-huy hành-quân và tham-mưu có dịp phối-hợp hành-quân soạn-thảo kế-hoạch đổ-bộ thật-sự và có tầm vóc quốc-tế.

3. Các quân-nhân của những Tiểu-Đoàn tác-chiến có cơ-hội học hỏi được nhiều-điều-bổ-ích về sinh-hoạt cũng như về chuyên-môn của Binh-chủng Thủy-Quân Lục-Chiến, như leo lưới, đổ-bộ trên các loại tàu tối-tân. Sĩ-Quan các cấp có được khái-niệm về hành-quân Thủy-bộ thật sự.

4. Chứng tỏ cho địch biết rằng, không có địa-thế nào là "bất-khả xâm-phạm" đối với đoàn quân lưỡng-thế và tinh-nhuệ như chúng ta - Binh-chủng Thủy-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.[294]

 

Thanh-Thư Tàu Thuyền Cận-Duyên

            Một số công-tác điều-nghiên trước hết dùng cho quân-sự, nhưng lại rất hữu-ích cho những nhà khảo-cứu về khảo-cổ, văn-hóa, hàng-hải sau này. Nhờ ngân-khoản và phương-tiện dồi-dào của quân-đội Việt-Mỹ nói chung, Hải-Quân nói riêng, các quân-nhân Hải-Quân phối-hợp với Pḥng Thí-Nghiệm Columbus và Trung-Tâm Phát-Triển Khả-Năng Tác-Chiến đă thống-kê được nhiều-dữ-kiện về các tàu thuyền cận-duyên của Miền Nam Việt-Nam. Công-tác liên-hệ đến hàng trăm người kể cả quân-nhân lẫn dân-sự mang lại kết-quả là sự ra đời của hai cuốn sách có uy-tín và quen thuộc với Hải-Quân và các giới hàng hải VNCH vào hai thập-niên 1960 & 1970:

- Hải-Thuyền Thanh-Thư (Junk Blue Book: A Hanbook of Junks of South Việtnam). Cuốn sách này phát-hành năm 1963, nhỏ hơn cuốn thứ hai (phát-hành năm 1967), nghiêng nhiều-về khía-cạnh khảo-cổ hàng-hải khi bàn đến những đặc-điểm văn-hoá như truyền-thống, nguồn gốc và sự tiến-hoá của ghe thuyền Việt-Nam.[295]271

Các soạn-thảo-viên của "Advanced Research Project Agency" đặc-biệt lưu-ư đến sự phát-sinh loại-thuyền nhiều-thân Outrigger. Theo đó, Outrigger là những thân-phụ nằm bên ngoài phần thân chính-yếu. Chúng tác-dụng như những phao nổi làm tăng thêm sự bền-vững cho thuyền, tránh cho thuyền khỏi lật úp. Ngày nay ta không thấy loại ghe thuyền hai, ba thân ở Việt-Nam; nhưng những nhà nghiên-cứu này cho biết là dân Việt-Nam ta ngày xưa có sử-dụng (báo-cáo của Advanced Research Project Agency, 1962, trang A - 1-5.) Theo đó kỹ-thuật hàng-hải Việt-Nam thời cổ đă có ảnh-hưởng lan tràn qua cả Đại-Dương-Châu, vượt qua hai đại-dương Thái-B́nh sang Mỹ-Châu và Ấn-Độ sang vùng Cận Đông.

- Thanh-Thư về Tàu Thuyền Cận-Duyên Miền Nam Việt-Nam, Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam (Remote Area Conflict Information Center, Columbus, Ohio, 1967.) Đây là một cuốn sách ngoại-khổ, tài-liệu chính-yếu để Hải-Quân Việt-Nam nhận dạng ghe thuyền địa-phương hay xâm-nhập.

Một số tài-liệu quư-giá về thuyền bè trong thập-niên 1960 được ghi chép lại như sau:

- Tài-liệu kỹ-thuật, vật-liệu, thời-gian và phí-tổn đóng thuyền.

- Cách-thức bảo-tŕ thuyền bè và dụng-cụ hàng-hải, ngư-nghiệp.

- Các loại cá và ngư-trường.

 

 

Một Trang Quan-trọng của cuốn Sách “Hải-Thuyền Thanh-Thư” (Junk Blue Book: A Hanbook of Junks of South Việtnam).

 

Neo Tuổi Vàng, Thi-phẩm của tuổi Trưởng-thành.

            Hải-Quân VNCH có nhiều-văn, thi, nhạc-sĩ sáng-tác đủ mọi cấp-bậc, từ cấp Thủy-thủ như Anh-Thi, cho đến cấp Tư-Lệnh Vùng Duyên-Hải. Người trẻ tuổi ca-tụng t́nh yêu say đắm, người trưởng-thành trân-quư đoạn đời vàng ngọc, thông-hiểu thêm nhiều-điều-lư-tưởng cao-qúy hơn trong lẽ sống.

Tập thơ "Neo Tuổi Vàng"[296] đánh dấu đỉnh cao thi-tài của thi-sĩ Hữu-Phương, tức HQ Trung-Tá Nguyễn-Hữu-Chí[297]. Ông làm thơ từ lúc c̣n là sinh-viên và đây là tác-phẩm được xuất-bản khi Ông đang nắm quyền chỉ-huy Hải-Quân cả một vùng biển rộng lớn trong Vịnh Thái-Lan. Trước đây, những người yêu thơ Ông cũng đă t́m thấy nỗi-niềm tâm-sự của một người Lính Biển qua các tập thơ Tâm-Sự Người Đi Biển, Luống Biển.

 

 

Năm 1968

            Vào đầu năm 1968, Việt-Cộng mở cuộc Tổng-Công-Kích - Tổng-Khởi-Nghiă trên khắp lănh-thổ của Việt-Nam Cộng-Ḥa trong Tết Mậu Thân 1968[298].

Như nhiều-nhà nghiên-cứu khách-quan, James Wirtz thấy rằng quân-đội Hoa-kỳ hoàn-toàn bị bất ngờ và ngành T́nh-Báo của họ thất-bại lớn (The Tet Offensive: Intelligence Failure in War).[299] Trong khi đó, theo các tài-liệu của Bộ Tồng-Tham-Mưu QLVNCH và của Sử-gia Phạm-Văn-Sơn th́ một số đơn-vị Quân-lực VNCH tại địa-phương đă nhận ra sự điều-động của quân Cộng-Sản, nên có đề-pḥng. Nhờ những biện-pháp đề-pḥng tại chỗ như vậy mà địch-quân không hoàn-toàn thi-hành được việc tổng-tấn-công, nhiều-ít góp công giữ vững Miền Nam Tự-Do.

Hải-Quân bảo-toàn lực-lượng, không bị thiệt-hại ǵ đáng kể lại c̣n yểm-trợ đắc-lực quân bạn tái-chiếm nhiều-vị-trí quan-trọng... Đại-Tướng Westmoreland, Tư-Lệnh Lực-Lượng Hoa-Kỳ tại Việt-Nam đă nói một câu có ư-nghiă: “Hải-Quân đă cứu nguy toàn vùng Châu-thổ Cửu-Long-Giang.”

Các Giang-Đoàn 21XP, 23XP trở thành những đơn-vị giang-lực đầu-tiên của HQVNCH được tuyên-công đơn-vị đồng-minh US Navy Unit Commandation của Hoa-Kỳ[300].276

            Kể từ tháng 2 năm 1968, công-tác huấn-luyện chính của HQVNCH được phối-trí lại, giao-phó cho 3 trung-tâm:

- Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang chuyên đào-tạo Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan.

- Trung-Tâm Huấn-Luyện Cam Ranh huấn-luyện căn-bản quân-sự và đào-tạo Thủy-thủ.

- Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc Sài-G̣n có trường Huấn-luyện Ngoài Khơi và các lớp trau dồi thêm về kỹ-thuật cũng như kiến-thức chuyên-môn.

            Tháng 3, để tăng-cường cho Hải-Quân Việt-Nam, Đồng-minh Hoa-kỳ gửi 10 Quân-Vận-Đĩnh ATC, 3 Tiền-Phong-Đĩnh Monitor và 1 Soái-Đĩnh Thủy-bộ đến hoạt-động tại Vùng 1 Duyên-Hải.

            Tháng 6, Giang-Lực nhận nhiều-Giang-Tốc-Đĩnh PBR (River Boat, Patrol) theo tinh-thần viện-trợ của chương-tŕnh MAP (Military Assistance Program).

 

Đời sống khó-khăn khi đồng Dollar và người Mỹ vào Việt-Nam

            Đời sống vật-chất trở nên khó-khăn đặc-biệt cho những quân-nhân có gia-đ́nh. Đồng Dollar theo chân người Mỹ vào Việt-Nam đă làm suy giảm nặng nề giá-trị của tiền-tệ Việt-Nam. Măc dù tiền lương tăng dần dần tới 30% sau 3 năm, lương của một Đại-Úy Hạm-Trưởng với vợ con chỉ bằng một phần ba tiền chạy xe của một người tài-xế Taxi tại đường phố Sài-G̣n. T́nh-trạng của những gia-đ́nh thủy-thủ sinh-hoạt thiếu-thốn đến độ Phó Đô-Đốc Zumwalt phải nghĩ đến một nhiệm-vụ mới bất-thường ngoài quân-vụ là trợ-giúp các trại gia-binh xây thêm nhà cho lính và cất chuồng chăn nuôi gà vịt làm thực-phẩm.

Sự bất-lực của người lính Hải-Quân khi không cung-cấp nổi nhu-cầu sinh-sống thường ngày cho gia-đ́nh ḿnh có thể làm suy-giảm tinh-thần, gây ra sự mất mát lớn lao cho Hải-Quân nhanh hơn Công-sản. Vè lâu về dài, mức sinh-hoạt thấp theo ư-kiến của Zumwalt đáng ngại hơn là cả Việt-Cộng.[301]

            Một vài khiá-cạnh sinh-hoạt của quân-nhân Hải-Quân được miêu tả qua một cuốn tiểu-thuyết của một Sĩ-Quan Hải-Quân xuất-bản hồi đó tại Sài-G̣n[302].

 

Tướng 3 sao đầu-tiên của HQHK tại Việt-Nam

            Ngày 30 tháng 9 năm 1968, Phó Đô-Đốc Elmo R. Zumwalt, Jr. nhận quyền Tư-Lệnh Lực-Lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam[303](COMNAFORV). Chỉ một tháng sau đó, vào ngày 2 tháng 11, Zumwalt hội-họp với Đại-Tướng Creighton Abrams, Tư-Lệnh Lực-Lượng Hoa-Kỳ tại Việt-Nam (U.S. Military Assistance Command, Vietnam - USMACV) về chương-tŕnh "Việt-Nam hoá chiến-tranh" (Accelerated Turnover to the Vietnamese - ACTOV)[304]. Theo lịch-tŕnh, Hải-Quân Hoa-kỳ sẽ từ-từ rút quân ra, chuyển-nhượng lại cho Hải-Quân Việt-Nam 500 chiến-hạm và chiến-đĩnh đủ loại. Song song với việc bàn-giao chiến-hạm, chiến-đĩnh, tất cả các Căn-cứ hành-quân và Tiền-Doanh Yểm-Trợ của Hải-Quân Hoa-Kỳ cũng được bàn-giao cho Hải-Quân Việt-Nam theo tinh-thần chương-tŕnh ACTOVLOG[305] (Accelerated Turnover of Logistics to the Vietnam), một thành-phần của ACTOV.

Theo Thomas J. Cutler, ngay giữa khi buổi họp USMACV đang hồi căng thẳng, Zumwalt cùng người phụ-tá vội vă sửa chữa lại bản báo-cáo, gạc bỏ hết mấy chữ "v -đoán" như dự-trù, có thể... Khi được mời lên thuyết-tŕnh, Phó Đô-Đốc Zumwalt c̣n hứa gia-tốc kế-hoạch bàn-giao và ước-định luôn cả hạn-kỳ hoàn-tất là ngày 30 tháng 6 năm 1970. Các điều-Zumwalt đưa ra không những đúng với những ước muốc của tướng Abrams[306], mà c̣n thực-sự ăn khớp với kế-hoạch chung. Khi đó v́ áp-lực của phe phản-chiến, chính-phủ Mỹ phải tính toán để làm sao rút chân ra khỏi Việt-Nam càng sớm càng tốt.

 

Chiến-dịch SEALORDS và First Sealord

Khi Zumwalt qua Việt-Nam th́ t́nh-trạng của Việt-Cộng đă suy-yếu hẳn sau Tết Mậu-Thân 1968. Thảm-bại nặng-nề nhất là tất cả cơ-sở hạ-tầng của Cộng-Sản, v́ kế-hoạch tổng-tấn-công sai-lầm mà bị lộ-diện và bị Việt-Nam Cộng-ḥa tiêu-diệt hết.[307]

C̣n về Lực-Lượng Hải-Quân Mỹ, quân-số đă lên đến mức tối-đa, đă gặt-hái được kinh-nghiệm nên đang hoạt-động một cách hữu-hiệu

            Hải-Quân Hoa-Kỳ có 38,386 quân-nhân lúc đó tại Việt-Nam. Ngoài Zumwalt c̣n có 3 vị Đề-Đốc 2 sao là Tư-Lệnh-Phó NAVFORV, Chỉ-Huy-Trưởng Tiếp-Vận Đà-Nẵng và Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng Công-binh Kiến-tạo Hải-Quân HK.

            Elmo R. Zumwalt từng được nổi tiếng là một viên Phó Đô-Đốc trẻ có nhiều-ư-kiến rất tiến-bộ. Khi Zumwalt nhận quyền chỉ-huy th́ gặp một Tư-Lệnh Lực-Lượng là Đại-Tá Robert S. Salzer sắp đáo-hạn hồi-hương. Salzer là một Sĩ-Quan ưu-tú có tương-lai, sau khi thuyết-tŕnh cho Zumwalt biết t́nh-h́nh đă đưa ra một chiến-thuật mới. Salzer cho rằng thật là vô-ích và phí-phạm tiềm-năng tác-chiến nếu HQHK cứ tiếp-tục chiến-thuật Truy lùng và Tiêu-diệt (Search and Destroy). Trong những điều-kiện thuận-lợi có sẵn tại sao Hải-Quân lại không buộc Việt-Cộng phải bỏ mật-khu mà lộ-diện để bị tiêu-diệt.

Zumwalt thắc mắc hỏi tại-sao địch-quân lại chạy ra trước (mũi súng của) ta. Câu trả lời của Salzer rất khẳng-định là “Cộng-Sản chỉ sống nhờ nguồn tiếp-vận từ ngoại-biên đem vào. Thay v́ dùng Lực-Lượng mạnh Hành-Quân lớn từng giai-đoạn, nay Hải-Quân nên dùng những đơn-vị nhỏ chận đứng ngay yết-hầu của địch nơi những tuyến đường tiếp-tế quân-dụng từ Kampuchia.[308] Khi ngộp thở v́ thiếu thốn, chúng phải tập-trung lại để phản-ứng. Đây là lúc Hải-Quân ra tay, nắm thế chủ-động. Lực-Lượng cơ-hữu của ta sẵn-sàng, sẽ tiêu-diệt chúng dễ dàng mà khỏi t́m kiếm hay truy-lùng địch mất công.”

            Zumwalt và Bộ Tham-Mưu nghiên-cứu kế-hoạch đó trong vài ngày và danh-từ SEALORDS (Southeast Asia, Lake, Ocean, River, Delta Strategy) ra đời. Zumwalt lại yêu-cầu Salzer cho thêm chi-tiết và kế-hoạch này mong chóng được chấp-thuận. Salzer được vinh-dự bổ-nhiệm làm First Sea Lord[309].

            Lúc đó, 3 Lực-lựợng (Task Force - TF) của HQHK là

TF 115 Market Time gồm có 26 WPB và 81 PCF

TF 116 Game Warden gồm có197 PBR

TF 117 Mobile Riverine Assault Force gồm có 161 armored river craft

            Để thi-hành kế-hoạch, Salzer được quyền điều-động một số phương-tiện do các Lực-Lượng biệt-phái để hành-quân dọc biên-giới Việt-Miên. Tại đây hàng tháng, có khoảng 175 đến 200 tấn quân-dụng được Việt-Cộng vận-chuyển từ Kampuchia sang cho quân-đội của chúng tại vùng Quân-Đoàn 3 và Quân-Đoàn 4.

Số chiến-đĩnh lấy ra từ các Lực-Lượng để tham-dự Chiến-dịch Sealords không nhiều nên không làm suy yếu các Lực-Lượng cơ-hữu của Mỹ bao nhiêu, mà kết-quả Hành-quân thấy rơ-ràng hữu-hiệu.

Vào tháng 10 năm 1969, một năm sau khi Sealords khởi-sự, báo-cáo của HQHK cho hay Cộng-quân trong Vùng Đồng Bằng sông Cửu-Long phải gánh chịu áp-lực nặng nề. Các thủy-lộ vùng biên-giới được Hải-Quân Việt-Mỹ tuần-tra hữu-hiệu, Những kế-hoạch tiếp-tế quân-cụ và di-chuyển nhân-viên của địch từ Cambodia sang Việt-Nam bị ngăn-chặn hay làm chậm-trễ đáng kể. Việt-Cộng cũng  bị những cuộc đột-kích bất ngờ vào tận căn-cứ mà trước đây chúng tưởng là an-toàn. Cộng-quân hiển-nhiên đă rơi vào thế bị động. Lực-lượng ta tịch-thu hay phá-hủy 500 tấn vũ-khí, đạn-dược, thực-phẩm, thuốc men; 3,000 Cộng-quân bị giết, 300 bị bắt sống.

Nhờ nắm hoàn-toàn thế chủ-động, lực-lượng Việt-Mỹ chỉ có 186 hy-sinh và 1,451 bị thương.

SEALORDS chuyển qua Chiến-dịch Trần-Hưng-Đạo

Một thời-gian sau, SEALORDS chuyển qua Chiến-dịch Trần-Hưng-Đạo.

Để ngăn-chặn đường tiếp-vận của Việt Cộng từ Cao Miên sang Việt-Nam, chiến-dịch Sealords - Trần-Hưng-Đạo đă được thực-hiện dọc theo biên-giới Việt Miên. Lực-Lượng hành-quân hầu hết là các Giang-Đoàn Tuần-Thám thuộc Lực-Lượng Tuần-Thám - Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 212.

Một số cuộc Hành-quân diễn-tiến theo thứ-tự thời-gian như dưới đây:

- Tháng 11 năm 1968 Hành-Quân Foul Deck - Trần-Hưng-Đạo 1, tuần-tiễu ngăn-chặn trên kinh Vĩnh-Tế từ Hà-Tiên đến Châu-Đốc.

- Tháng 11 năm 1968. Hành-Quân Search Turn - Trần-Hưng-Đạo 3. tuần-tiễu ngăn-chặn trên kinh Cái Sắn từ Rạch Giá đến Long Xuyên.

- Tháng 12 năm 1968. Hành-Quân Giant Slingshot - Trần-Hưng-Đạo 2, tuần-tiễu ngăn-chặn trên sông Vàm Cỏ Đông, Và Cỏ Tây bao quanh Mỏ Vẹt.

- Tháng 1 năm 1969. Hành-Quân Barrier Reef - Trần-Hưng-Đạo..., tuần-tiễu ngăn-chặn trong kinh Trà Cú từ sông Hậu Giang đến sông Vàm Cỏ Tây.

- Tháng 6 năm 1969. Hành-Quân Ready Deck - Trần-Hưng-Đạo.5.. tuần-tiễu ngăn-chặn trên sông Sài-G̣n từ Phú Cường đến Dầu Tiếng.

            Vào đầu năm 1969, mạng lưới tuần-tiễu sông ng̣i của Hải-Quân không ngừng nghỉ nối-tiếp từ Tây-Ninh, Vùng Tây-Bắc Sài-G̣n đến Hà-Tiên, tận bờ biển vịnh Thái-Lan.[310]

Những nhận-xét của một giới-chức cao-cấp về tinh-thần quân-sĩ Hành-Quân Sông như sau:

"Với Chiến-dịch Sealords - Trần-Hưng-Đạo một tuyến tuần-tiễu ngăn-chặn xâm-nhập trong sông rạch đă được thực-hiện kéo dài từ Hà Tiên cho đến Dầu Tiếng. Để yểm-trợ cho chiến-dịch này, một hệ-thống tiếp-vận và tiền-trạm hành-quân đă được xây- cất trong vùng thật hoang-vu hẻo lánh, đôi khi sát cạnh các vùng căn-cứ địch. Những cuộc đụng độ với địch thường-xuyên xảy ra đă nói lên tinh-thần quả-cảm của các chiến-sĩ Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa".[311]

 

Sự Hữu-hiệu của những Phương-tiện mới

Hải-Quân Hoa-Kỳ đă mang vào Việt-nam một số quân-cụ rất tối-tân như sau:

- Giang-Tốc-Đĩnh có vận-tốc cao tới gần ba lần chiến-đĩnh tuần-giang cũ.

- Giang-đĩnh thủy-bộ có giáp sắt dày, hỏa-lực cũng gấp bội.

- Các quân-cụ hữu-dụng đáng kể như radar, kính hồng-ngoại-tuyến, dụng-cụ tác-chiến điện-tử, ống nḥm Starlighter... đặc-biệt giúp cho công-tác tuần-tiễu ban đêm tăng thêm phần hữu-hiệu.

Trong phần Phụ-bản cuối cuốn sách này, chúng tôi cung cấp những đặc-tính quan-yếu của các chiến-hạm và chiến-đĩnh chính để làm tài-liệu cho những cuộc nghiên-cứu tương-lai.

 

 

Các Chiến-Đĩnh mới có vận-tốc rất cao.

 

Kế-hoạch tăng thêm Sĩ-Quan cho Hải-Quân

Như đă tŕnh-bày từ những chương trên, Đoàn-Viên Hải-Quân ngay khi được tuyển-lựa đă là những người có tŕnh-độ học-vấn cao. Sinh-hoạt trong một môi-trường học-thức, cầu-tiến, nặng kỹ-thuật; người có Trung-Học cố lấy bằng Tú-tài, người có bằng Tú-tài mong đoạt Cử-nhân. Một số Đoàn-Viên có đủ điều-kiện đă xin nhập học các khoá Sĩ-Quan đặc-biệt tại Trường Bộ-Binh Thủ-Đức. Sau khi măn-khóa với cấp bậc Chuẩn uư, thông-thường họ sẽ phục-vụ trong Lục Quân.

            V́ thấy đây là một thất thoát nhân-lực đáng kể, BTL/HQ đă tŕnh Bộ Tổng-Tham-Mưu và được chấp-thuận để Hải-Quân tổ-chức các khoá Sĩ-Quan Đoàn-Viên. Mục-đích của các khóa này là huấn-luyện các khóa-sinh có đủ khả-năng căn-bản của một Sĩ-Quan Hải-Quân, kể cả việc đương-phiên hải-hành trên các chiến-hạm.

Bốn khóa đă được đào-luyện trong khoảng từ năm 1968 đến 1972, với các chi-tiết sau đây:

- Thời-gian huấn-luyện mỗi khóa: 6 tháng,

- Địa-điểm huấn-luyện: Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân, Sài G̣n,

- Điều-kiện nhập học: cấp-bậc từ Trung sĩ Nhất trở lên, có bằng Trung học Đệ Nhất cấp, riêng các Thượng sĩ Nhất nếu có bằng Cao đẳng Chuyên-Nghiệp có thể được miễn bằng THĐNC.

- Sĩ số mỗi khóa: 60

- Các môn học chính: Lănh-đạo chỉ-huy, tổ-chức Hải-Quân, hàng-hải, vận-chuyển, truyền-tin, trọng pháo, cơ-khí, điện-khí, pḥng tai.

            Tính tới tháng 4 - 1975, cấp bậc cao nhất của cac vị SQĐV này là Đại-Úy. Các khóa đào-luyện SQĐV này tỏ ra rất hữu-ích cho Hải-Quân v́ ít nhất đă đáp-ứng được các nhu-cầu quan-trọng sau đây:

1. Bảo-toàn nhân-lực cho Hải-Quân nhờ giữ được các nhân-viên có khả-năng cao, giầu kinh-nghiệm và có hạnh-kiểm tốt.

2. Thỏa-măn được nhu-cầu tiến thân của các nhân-viên tốt, nhờ đó nâng cao tinh-thần của toàn-thể nhân-viên.[312]

 

Bản Nhạc Hoa Biển

            Một hiện-tượng văn-hóa rất đáng nói trong năm 1968 là tác-phẩm “Hoa Biển” của Nhạc-Sĩ Anh-Thy[313]. Bản nhạc là bức thư t́nh của người lính thủy ngoài biển khơi gửi về người yêu chờ đợi, nhắn nàng đừng buồn khi xa cách. Mối t́nh của họ dạt-dào tựa trùng-dương nổi sóng, trắng xóa như hoa đại-dương.

Thông thường lời ca của bản nhạc chỉ là những điệp-khúc ngắn ngủi khó diễn-tả được t́nh-cảm đầy đủ như một bài văn hay một cuốn tiểu-thuyết. Tuy thế, lời nhạc của Hoa Biển là những ư thơ lăng-mạn trữ-t́nh, tuôn-trào theo ngọn nước dâng tràn, dồn dập như những cơn sóng biển, lớp sau đùa lớp trước. Các điệp-khúc qua tài sáng-tạo của Anh Thy, đă nói lên được nỗi ḷng của những chàng thủy-thủ trẻ tuổi đang lúc săn đuổi quân thù mà ḷng vẫn nhớ về người t́nh yêu dấu.

Bản nhạc thai-nghén trong những ngày sau Tết Mậu-Thân, đang lúc quê-hương ngập ch́m khói lửa. Khi lưu-trại, súng trên vai pḥng-thủ căn-cứ, người nghệ-sĩ đă suy-tưỏng không đến bạn bè áo trắng ngoài đại-dương sóng gió, mà cả đến những người yêu nhỏ bé của họ sinh-sống nơi phố-thị an-toàn. Giặc thù Miền Bắc đă gửi toàn-lực tấn-công trên bờ, nay lại mang hàng chục chiếc tàu xâm-nhập để tiếp-tế cho đồng bọn “Giải-Phóng Miền Nam”. Mối chờ mong người t́nh đang mịt mù sương gió ngăn thù giữ nước ngoài góc biển chân trời, sao mà tha-thiết như vậy!

Bản nhạc Hoa Biển phát-hành đầu năm 1968, số bán hết rất nhanh. Không những ca-sĩ chuyên-nghiệp tŕnh-diễn mà cả các người lính cũng ngâm-nga. Rồi một lần tái-bản được tung ra ngay trong mùa Hải-Quân mừng chiến-thắng thủy-táng 3 tàu địch. Người nhạc-sĩ Hải-Quân vô-danh một sớm một chiều đă nổi tiếng như cồn trên đài danh-vọng.[314]

 

Năm 1969

            Đầu năm 1969 do việc chuẩn-bị chuyển-giao trách-nhiệm chiến-trường Sông-Biển cho Hải-Quân Việt-Nam, nhu-cầu Sĩ-Quan tăng cao, số lượng Sinh-Viên mỗi khoá do đó phải tăng lên trên 200.

            Ba Lực-Lượng tác-chiến sông ng̣i được thành-lập: Lực-Lượng Tuần-Thám, Lực-Lượng Thủy-Bộ, Lực-Lượng Trung-ương.

            Liên-đội Người Nhái trở thành Liên-Đoàn Người-Nhái.

            Hải-Lực được chuyển-nhượng thêm Dương-Vận-Hạm LST Vũng Tàu, HQ. 503.

Duyên-Pḥng nhận 8 Tuần-Duyên-Đĩnh WPB[315] mang số từ HQ. 700 đến HQ. 707.

            Quân-số trực-thuộc những vùng Duyên-Hải và Sông-Ng̣i trong nhiều năm đă gia-tăng đáng kể. Vào năm 1969, các Bộ Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng được nâng lên thành các Bộ Tư-Lệnh. Cấp-số Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng từ Đại-Tá tăng lên Phó Đề-Đốc.

Kể từ tháng 6/ 1968 đến cuối năm 1969, trong ṿng 17 tháng, HQVNCH nhận-lănh 242 tàu các loại, trị-giá 68,300,000 Mỹ-kim.[316]

 

 

Lực-Lượng Duyên-Pḥng nhận Tuần-Duyên-Đĩnh WPB

 

Phân-tích Kết-quả Chiến-dịch Sealords

Con số tương-quan tổn-thất tử-vong địch/ta 3300/186 nói lên chiến-công lớn. Tỷ-số thương / vong 1, 451/186 của riêng phía Hải-Quân Đồng-minh cho ta thấy những nhận-xét sau:

Muốn vào sào-huyệt của Công-Quân, quân ta phải mạo-hiểm, chịu-đựng những tổn-thất cao để đổi lai một con số tổn-thất gần hai chục lần cao hơn về phía địch. Sự thành-công nhờ vào yếu-tố chủ-động chiến-trường. Ccác mũi dùi của ta nhanh nhẹn chia cắt địch-quân ngay trên những vùng chúng đă chiếm-đóng lâu dài.

Địch cũng thất-bại ngay cả khi chúng tưởng rằng đă nắm được thế chủ-động khi phục-kích giang-đĩnh HQVN. Nhờ vận-tốc cao, các chiến-đĩnh vượt thoát cơn nguy-hiểm chỉ trong chớp nhoáng. Nhân-viên ta thường chỉ bị thương nhưng rất ít người chết. Số tử-vong giảm v́ giang-đĩnh chạy nhanh, tản-thương lẹ làng, thương-binh được cứu-cấp kịp thời.

Cũng cần phải ghi-nhận thêm là tỷ-lệ trung-b́nh chết/ thương trong các thế-chiến I và II là 1/3, nay tại Sealords - tỷ-số ấy giảm xuống chỉ c̣n 1 chết trong sô 8 người (tức 1/8) bị thương mà thôi.

Về phía địch-quân một khi đă bị thương, chúng rất dễ bị chết sau đó. Ngoài khả-năng điều-trị thương-binh yếu kém, Cộng-Sản lại c̣n bị ta bóp nghẹt luôn các con đường tản-thương nữa.

 

Thánh Tổ Hải-Quân

            Ư-tưởng nhận Thánh-tổ Trần-Hưng-Đạo đă manh-nha ngay từ những năm đầu HQVN c̣n sơ-sanh. Danh-hiệu những chiến-hạm đầu-tiên chính là tên các trận thủy-chiến đời Trần: Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng.

Trong các buổi đại-lễ, toán hầu-kỳ Hải-Quân Việt-Nam gồm có: Quân, Quốc và Thánh-kỳ. Vào ngày kỷ-niệm Thánh-tổ, chiến-hạm kéo Đại-kỳ rực rỡ, có Thánh-kỳ ngũ sắc phất-phới bay nơi cột cờ mũi.

Ngày 20 tháng 8 âm-lịch năm 1969, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa khánh-thành tượng Đức Thánh Trần tại công-trường Mê-Linh bến Bạch-Đằng.

 

 

 Lễ Khánh-thành tượng Đức Thánh Trần tại công-trường Mê-Linh bến Bạch-Đằng.

 

Sự hữu-hiệu của Trợ-Chiến-hạm và Giang-Pháo-hạm.

            Trong ṿng 25 năm chiến-tranh, loại Trợ-Chiến-Hạm LSSL là loại chiến-hạm có hỏa-lực mạnh nhất trong sông ng̣i Việt-Nam. Kế đó là các Giang-Pháo-Hạm. Khi hành-quân phối-hợp với lực-lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái-hạm lưu-động cho CHT Hành-Quân. Với hỏa-lực hùng-hậu, Chiến-hạm yểm-trợ hải-pháo rất đắc-lực khi tiến-quân.

 

 

Một số Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVN đă làm quen với loại Trợ-Chiến-Hạm LSSL[317] từ những năm 1952-1953. Trong h́nh chụp Thủy-Thủ-Đoàn chiếc Hallebarde LSSL-3 của Hạm-Trưởng Leroux, có chừng 4, 5 người hơi nhỏ dáng-dấp Việt-Nam.

 

Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng-bằng sông Cửu Long, Trợ-Chiến-Hạm và Giang-Pháo-Hạm đă được sử-dụng vào các công-tác tuần-tiễu sông ng̣i. Lâu lâu, cấp Chỉ-huy c̣n dùng hai loại tàu này thường-trực để yễm-trợ cho lực-lượng diện-địa ven sông. Trong công-tác này, chiến-hạm thường đơn-độc nên dễ-dàng bị địch phục-kích khi giang-hành và cả khi neo lại nghỉ-ngơi.

Một cựu Hạm-Trưởng đưa ra 2 nhận-định sau:

- Thứ nhất, thời đệ nhị thế chiến, Giang-Pháo-hạm và Trợ Chiến-hạm là những pháo đài đáng sợ với địch quân. Sự ra đời của B 40, B 41 tạo lợi-thế cơ-động và cán-cân hỏa-lực nghiêng về lực-lượng phục-kích. Rất nhiều-chiến-hạm bị phục-kích với nhiều thiệt-hại trong các năm 1966, 1967, 1968.

- Thứ hai, Trợ-Chiến-Hạm và Giang-Pháo-Hạm chỉ có thể phát-huy tác-dụng trong cuộc Hành-Quân Thủy-Bộ. Nó đ̣i hỏi sự phối-hợp nhịp-nhàng giữa chiến-hạm, chiến-đĩnh và lực-lượng tùng-tháp (của Thủy-Quân Lục-Chiến) lẫn lực-lượng diện-địa.[318]

Nhiệm-vụ thường-xuyên và chính-yếu của mọi loại Chiến-hạm, Chiến-đĩnh trong thời chiến-tranh là tuần-tiễu sông ng̣i hay biển cả. Ở trong sông, nếu tàu không tuần-tiễu sông ng̣i th́ làm ǵ?!

Chỉ có điều chiến-hạm không nên tạo thói quen để địch điều-nghiên nắm nhược-điểm khi hoạt-đọng, cấp chỉ-huy cao-cấp không nên dùng chiến-hạm lớn LSSL/LSIL như một giang-đĩnh nhỏ trong viêc tuần-tiễu thường-xuyên th́ tai-họa ch́m tàu[319] đỡ xảy ra. Suy cho cùng, có lẽ sự tiến-hóa trong "Luật Chiến-Tranh" đă chứng-minh thời-đại huy-hoàng của "Mighty Midgets" Trợ-chiến-hạm và Giang-pháo-hạm trong Sông Ng̣i đă lặng lẽ trôi qua.

 

 

 

Hai Trợ-Chiến-Hạm trong đội-h́nh mũi tên[320]

 

Diễn-tiến ACTOV và chương-tŕnh SCATTOR.

Chương-tŕnh ACTOV mới khởi-sự vài tháng là đă có ngay gia-tốc (Accelerated). Những chiến-đĩnh đầu-tiên của chương-tŕnh được bàn-giao vào tháng 2 năm 1969. Căn-cứ Mỹ-Tho trong ACTOVLOG qua tay Việt-Nam vào tháng 11 năm 1969.

Lực-Lượng Tuần-Duyên Hoa-kỳ[321] từ trước đă gửi nhân-viên và tàu thuyền tác-chiến cạnh Hải-Quân Hoa-kỳ, nay cũng có chương-tŕnh chuyển-giao riêng của họ, mệnh-danh là SCATTOR (Small Craft Assets, Training, and Turnover of Resources). Công-tác huấn-luyện Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Việt-Nam trên những chiến-đĩnh tuần-duyên khởi-sự vào tháng 2 năm 1969. Chỉ hơn 3 tháng sau, hai chiếc WPB 82310 Point Garnett và WPB 82304 Point League được chuyển-giao tại Cát-Lở để trở thành Tuần-Duyên-Đĩnh HQ. 700 Lê Phước Đức và HQ. 701 Lê-Văn-Ngà.

 

 

Chiếc Tuần-Duyên-Đĩnh WPB đầu tiên HQ. 700 mang tên Nguyễn-Phước-Đức, một Hạ-Sĩ-Quan đă anh-dũng hy-sinh tại Rạch Bà-Rai ngày 29/9/1965.

 

 

            Tại quân-trường Nha-Trang kể từ khoá 19 đến khóa 23, thời-gian huấn-luyện chỉ c̣n 1 năm, Sinh-Viên ra trường Chuẩn-Úy Tạm-thời. Sau một năm thực-tập ngoài đơn-vị, các Chuẩn-Úy này được mang cấp-bậc Thiếu-Úy trừ-bị Thực-Thụ.

Khóa 19, Đệ Nhị Thiên-Xứng có 268 Sinh-Viên gồm 189 ngành Chỉ-Huy và 79 ngành Cơ-Khí. Thời-gian thụ-huấn 1 năm, Sinh-Viên nhập trường ngày 19 tháng 02 năm 1969. Đây là khóa đầu-tiên trong chương-tŕnh ACTOV. Đồng-thời các khóa Trần-Hưng-Đạo OCS (Officer Candidate School) tại Hoa-Kỳ cũng bắt đầu khai giảng. Khóa 19 măn khóa vào ngày 21 tháng 02 năm 1970.

 

Vai tṛ của Lực-Lượng Tuần-Duyên Hoa-Kỳ.

Đứng cạnh cái bóng to lớn của Hải-Quân Hoa-Kỳ, Lực-Lượng Tuần-Duyên Hoa-Kỳ (LLTD/HK - U.S. Coast Guard) của họ có vẻ như đóng vai tṛ mờ nhạt. Sự thật lực-lượng nửa công-chức nửa quân-sự[322] này đă đóng góp khá nhiều-cho cuộc chiến Việt-Nam. Chỉ nguyên công-tác yểm-trở hải-pháo tiếp-cận với 77,000 trái đạn hầu hết để tiếp-cứu quân bạn Việt-Nam và Đồng-Minh cũng đă đáng kể. Ngoài ra những việc ǵn giữ an-ninh thủy-lộ, các vùng cận-duyên..., đặc-biệt an-ninh các bến cảng được tốt đẹp khi Lực Lượng Tuần-Duyên HK nhập cuộc. Một cựu chiến-binh khi đọc cuốn "The Coast Guard at War, Vietnam 1965-1975"[323] đă ngạc-nhiên thấy rằng mọi người kể cả giới-chức quân-sự Hoa-Kỳ lại quên vai tṛ của U.S. Coast Guard đến như vậỵ.

            Khi mới trực-tiếp tham-chiến, Hải-Quân Hoa-Kỳ cần 17 tiểu-đĩnh pḥng-duyên của U.S. Coast Guard cho chiến-trường Việt-Nam. Lực-Lượng này đề-nghị HQHK đệ-tŕnh Tổng-Tư-Lệnh tức Tổng-Thống Hoa-Kỳ cho nhân-viên của họ được sang phục-vụ tại Việt-Nam.

            Lực-Lượng Tuần-Duyên Hoa-Kỳ chỉ tham-chiến có vài ngàn người, nhưng thực-sự là những chuyên-viên về tiểu-đĩnh, hoạt-động hữu-hiệu hơn HQHK trong công-tác tuần-duyên. Việc sử-dụng súng cối 81 ly trực-xạ trên có gắn đại-liên 50 là sáng-kiến riêng của họ. Hai khẩu pháo đi cặp với nhau, không những đă không chiếm chỗ lại rất hữu-hiệu để gia-tăng hỏa-lực tác-chiến.[324]      

            Trong khi bàn về nhiều-chuyện xấu bẩn nhỏ nhặt về chiến-tranh Việt-Nam, hai tác-giả James F. Dunnigan and Albert A. Nofi đă khen-ngợi LLTD/HK như sau: Trong hai năm đầu của Hành-Quân Market Time, hầu hết công-tác là do Lực-Lượng Tuần-Duyên chu-toàn. Trong suốt cuộc chiến, nhân-viên Tuần-Duyên đă khám xét 250,000 ghe thuyền, yểm-trợ Hải-pháo 6,000 lần. Lực-Lượng này đă cung-cấp nhân-viên và phương-tiện pḥng-thủ hải-cảng, ngoài ra c̣n phụ-giúp HQHK huấn-luyện HQVN.[325]

            Khi chấm-dứt chương-tŕnh SCATTOR vào 15 tháng 8 năm 1970, ảnh-hưởng LLTD/HK trong những phương-thức hoạt-động của HQVNCH khá nhiều. Các chiến-hạm từ chiếc lớn nhất là Tuần-Dương-Hạm qua các Tuần-Duyên-Đĩnh, cho tới những Tiểu-đĩnh tuần-cảng nhỏ bé đều xuất-xứ từ Lực-Lượng Tuần-Duyên Hoa-Kỳ.[326]

 

Những Tuần-Dương-Hạm đầu-tiên của HQVNCH

            Cho đến cuối thập-niên 1960, HQVNCH sử-dụng Hộ-Tống-Hạm PCE loại 680 tấn (tối đa với hải-pháo 76.2 ly như những nỗ-lực chính của công-tác tuần-dương và yểm-trợ hải-pháo. Chương-tŕnh trang-bị Tuần-Dương-Hạm WHEC làm cả HQVN hết sức hứng khởi. Tuy vậy việc huấn-luyện Sĩ-Quan và Đoàn-Viên để nâng cao khả-năng chuyên-nghiệp hầu điều-hành một chiến-hạm lớn hơn gần 4 lần PCE không phải là chuyện dễ-dàng.

            Trong các chiến-hạm chủ-lực, Tuần-Dương-Hạm sẽ là loại tàu không những có bài-thủy-lượng lớn nhất mà c̣n là chiến-hạm có hỏa-lực mạnh nhất với dàn hải-pháo 5 inches, tức 127 ly.       

 

 

Tuần-Dương-Hạm WHEC không những có bài-thủy-lượng lớn mà c̣n là chiến-hạm có hỏa-lực mạnh nhất với dàn hải-pháo 127 ly.

 

Tổ-Chức Điều-Hành ACTOV

Khi ACTOV khởi-sự, Văn-pḥng Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân đầy nghẹt văn-thư giấy tờ liên-hệ đến công-việc chuyển-giao.

Để tiếp-nhận thêm chiến-hạm, chiến-đĩnh, căn-cứ; Hải-Quân Việt-Nam phải nghiên-cứu ngay kế-hoạch tuyển-mộ nhân-viên, huấn-luyện, thực-tập và thi-hành làm sao cho Sĩ-Quan và Đoàn-Viên có đầy đủ khả-năng tiếp-nhận và sử-dụng những phương-tiện mới. Là cơ-quan đảm-trách về Tổ-Chức, Pḥng 3 đă trở thành trung-tâm điều-hành chương-tŕnh. Trưởng Pḥng 3 lúc này rất bận rộn. Ngoài công-việc thường-nhật về nghiên-cứu và cải-thiện kế-hoạch hoạt-động của Hài-Quân, tổ-chức, điều-hành nghi-lễ, phân-nhiệm trực-nhật, pḥng-thủ khu-vực... nay lại phải họp-hành liên-miên tại BTTTM/QLVNCH, tại MACV, tại NAFORV... rồi lại gánh thêm nhiều-nhiệm-vụ mới như điều-nghiên, phối-hợp các pḥng-sở và đơn-vị trong mục-đích tái tổ-chức những đơn-vị cũ, thành-lập các đơn-vị mới...

Cuối năm 1969, Chức-vụ Giám-Đốc Điều-Hành ACTOV được giao cho Phó Trưởng-Pḥng 3 đảm-nhiệm. Tuy có chức Giám-Đốc nhưng v́ cấp-bực thấp[327] nên mọi văn-kiện quan-trọng, Phó Trưởng Pḥng 3 đều phải đệ-tŕnh Trưởng Pḥng 3, TMT/HQ hay TL/HQ duyệt-kư.

V́ chương-tŕnh ACTOV mang tính-cách đoản-kỳ nên Sĩ-Quan điều-hành thực-sự không có cấp-số và không có nhân-viên thường-trực phụ-giúp. Nhờ sự hợp-tác chặt chẽ giữa các pḥng sở trung-ương và đơn-vị địa-phương cùng sự góp công-sức của nhiều-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên các cấp Hải-Quân mà chương-tŕnh được tiến-hành và hoàn-tất.

 

ACTOV và ACTOV-X

            Vào đầu năm 1970, kế-hoạch ACTOV chuyển qua ACTOV-X. Hải-Quân Hoa-Kỳ muốn việc chuyển-giao chiến-cụ được hoàn-tất cho sớm hơn nữa, cho vượt luôn cả đà rút quân chung của Lục-Quân và Không-Quân Hoa-Kỳ ra khỏi Việt-Nam.

            Lúc trước, HQVNCH chỉ có mười ngàn người. Theo chương-tŕnh ACTOV, quân-số tăng lên 40,000 người, tức là Hải-Quân bành-trướng lên 4 lần trong ṿng 2 năm. Như vậy, Hải-Quân Việt-Nam phải hoàn-thành một mục-tiêu vĩ-đại trong một thời-hạn quá ngắn. V́ kế-hoạch này không khác ǵ làm “Ếch-Ương lớn thành Ḅ”, hầu hết các Sĩ-Quan Việt-Nam đều có ư-kiến phản-đối. Trong buổi họp tại BTL/HQVNCH, vị chủ-tọa là Tham-Mưu-Trưởng chuyển cho các vị Tham-mưu-phó và Sĩ-Quan Điều-hành ACTOV mỗi người một tập hồ-sơ bằng tiếng Anh mang tên ACTOV-X. Hồ-sơ đến từ NAFORV, muốn nghiên-cứu cũng phải hết cả tuần, nay Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam phải đưa ra quyết-định thi-hành phần ḿnh trong ṿng 24 giờ. Rơ-ràng Hoa-Kỳ rất nhanh-nhẹn t́m mọi cách chuyển gánh nặng của ḿnh sang vai người khác để một ḿnh thoát chạy ra cho sớm.

            Hơn 18 năm sau khi được hỏi về ACTOV-X, Cựu Phó Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh đă nói những câu có ư-nghĩa như sau:

“Nhiều-người nói Hải-Quân Việt-Nam rất thông-minh và sắc bén, họ lại nhanh-nhẹn chạy đến đích trước cả Lục-Quân VN và Không-Quân VN. Nhiều-người cũng đă nói là Đô-Đốc Zumwalt rất... thông-minh và sắc bén. Như vậy HQVNCH đă cùng đóng chung vai với Zumwalt trong kết-quả là Ông trở thành Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-kỳ. Ông bước lên đài (danh-vọng) ấy nhờ đi qua cái bậc thềm là (HQVNCH) chúng tôi.[328]

 

Đường Hồ-Chí-Minh trên Biển nối dài

            Thời-gian này Cộng-sản thay đổi kế-hoạch xâm-nhập mới. chúng kéo dài con đường Hồ-Chí-Minh trên Biển với điểm đến cuối cùng nằm trong vùng cảng Sihanouk Ville của Cambodge. Vị Phụ-tá TL/ HQ Hành-Quân Sông báo-cáo biến chuyển mới này như sau:

Hành-Quân Market Time đă gây khó-khăn cho công-tác tiếp-vận bằng đường biển từ Bắc vào Nam Việt-Nam của Cộng-Sản Bắc Việt. Mặt khác Hànội đă hoàn-tất đường ṃn Hồ Chí Minh để tiếp-vận cho các đơn-vị của chúng tại Vùng I và Vùng II Chiến-Thuật. Tại Miền Nam, Hànội đă dàn-xếp để có thể sử-dụng hải cảng Shianouk Ville và tiếp-tế cho các đơn-vị của chúng qua hệ thống sông rạch tại Miền Nam Việt-Nam[329].

 

 

Tàu VC xâm-nhập bị bắn cháy và tịch-thu

 

Chính-phủ VNCH đă phản-đối mạnh mẽ với chính-phủ Cambodge việc làm phi-pháp này của Hà-Nội, nhưng không có hiệu-quà[330] 303. Hải-Quân Việt-Nam sau đó đă quyết-định thiết-lập thêm 1 vùng viễn-duyên thứ 9 và 3 khu cận-duyên ngoài khơi của Sihanouk Ville với nỗ-lực tuần-phỏng chận đứng kế-hoạch xâm-nhập mới này của Cộng-Sản.

 

Năm 1970

            - Ngày 28 tháng 2, khóa 19 SVSQ tốt-nghiệp với 268 Sĩ-Quan hai ngành Chỉ-huy và Cơ-khí. Đây là khoá học đông nhất trong lịch-sử HQVNCH.[331]

            - Vào đầu tháng 5 năm 1970, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân thiết-kế cuộc Hành-Quân Ngoại-biên quy-mô đầu-tiên[332] . Hồi 07:30 giờ sáng ngày 9 tháng 5 năm 1970, HQVNCH ồ ạt vượt biên-giới Việt-Nam / Cambogde. Ngược ḍng Cửu-Long, mũi dùi Hải-Quân với 140 chiến-hạm chiến-đĩnh tiến qua Neak Luong, an-toàn kiểm-soát thủy-lộ Tân-Châu Nam-Vang[333]. Ít ngày sau, theo yêu-cầu của chính-phủ Cambodge, một đoàn giang-đĩnh được biệt-phái mở đường thủy Mekong thông suốt lên tận Kompong Cham. Lực-Lượng mạnh, hành-quân thần-tốc là yếu-tố thành-công của HQVNCH. Quân Cộng-Sản bị bất ngờ, không kịp trở tay. Áp-lực của Công-Sản đè nặng lên Thủ-đô Nam Vang suy-giảm rơ-rệt.

- Trong năm 1970, các chiến-hạm, chiến-đĩnh quan-trọng sau đây được trao cho Hải-Quân Việt-Nam:

- 1 Hộ-Tống-Hạm (MSF) Hà Hồi, HQ. 13.

- 2 Hoả-Vận-Hạm (YOG) HQ. 472 và HQ. 473.

- 3 Dương-Vận-Hạm (LST) Qui Nhơn, HQ. 504, Nha-Trang HQ. 505, Mỹ Tho HQ. 800.

- 18 Tuần-Duyên-Đĩnh WPB, mang số từ 708 đến 725.

- 1 Hộ-Tống-Hạm PCER Vạn Kiếp HQ. 14.

 

Trong ngày lễ Đỡ Đầu và Gia-Nhập HQVN của 2 Dương-Vận-Hạm HQ. 504 và HQ. 505, Tuyên-Úy làm lễ cầu an cho Thủy-Thủ-Đoàn.

 

 

Hộ-Tống-Hạm PCER Vạn Kiếp HQ. 14.

 

            Theo chương-tŕnh gia-tăng, quân-số Hải-Quân Việt-Nam tăng lên 33, 121 quân-nhân t́nh-nguyện. Trong số đó, có 5,000 Sĩ-Quan. Với quân-số này HQVNCH được sắp hàng 14 trong số các Hải-Quân lớn nhất thế-giới.[334]

            Ngày 1-6-1970, Tư-Lệnh-Phó NAVFORV cũng là First Sealord, Đề-Đốc H. S. Matthews được chỉ-định làm Tư-Lệnh-Phó Hành-Quân cho Phó Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn. Ngay sau đó, Tư-Lệnh HQVN Trần-Văn-Chơn được thăng-cấp Đề-Đốc vào ngày 19-6-1970.[335] 

Tháng 7 năm 1970, Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân Sông được thành-lập tại B́nh Thủy, gần Cần Thơ để chỉ-huy các lực-lượng của HQVN trong sông, ngoại trừ các Giang-Đoàn biệt-phái cho Vùng I Duyên-Hải và Vùng V Duyên-Hải đặt dưới quyền của Tư-Lệnh của các Vùng Duyên-Hải đó.

            Trong chiến-dịch ngoại-biên, ngoài việc tác-chiến, Hải-Quân Việt-Nam c̣n hoàn-tất việc di-chuyển 82,000 Việt-Kiều hồi-hương an-toàn khỏi những vùng bất ổn bên Cambodge.

 

Sự Hữu-hiệu của Không-tuần

            Từ năm 1961, công-tác không-tuần Biển Đông được các Thủy-phi-cơ Martin P-5 thực-hiện. V́ căn-cứ ở Đài-Loan quá xa, tầm hoạt-động của phi-cơ này bị rút ngắn. HQHK cho tăng-cường loại Phi-cơ P-2 Neptune khởi-hành từ phi-trường Tân-Sơn-Nhất. Khu-trục-cơ A-1 Skyraider cũng bay tuần-thám một giai-đoạn ngắn. Kể từ tháng 5 năm 1965 đến tháng 4 năm 1967, các Chiến-Hạm Seaplane Tenders như Currituck (AV 7) và Salisbury Sound (AV 13) được dùng làm mẫu-hạm cho các Thủy-phi-cơ Martin P5. Hai chiếc tàu thả neo trong những vùng Côn-Sơn, Cù-lao Chàm và Cam-Ranh làm căn-cứ xuất-phát tại chỗ. Thỉnh-thoảng loại phi-cơ Bird Dog của Lục-Quân Hoa-kỳ và phi-cơ Douglas C-47 của Không-Quân Việt-Nam cũng bay tuần biển.

 

 

Chiến-hạm Currituck (AV 7) là mẫu-hạm cho các Thủy-phi-cơ Martin P5.

 

Từ đầu năm 1967, Hoa-kỳ cho đồn-trú một Phân-Đoàn 12 chiếc P2 Neptune tại Cam-Ranh. Sau hết, Phi-cơ P3 Orion là loại Không-thám-cơ tối-tân nhất của HQHK, cất cánh từ Sangley Point Phillipines, Utapao Thái-Lan dần dần thay thế những phi-cơ cũ, đảm-nhiệm hầu hết công-tác tuần-thám nàỵ.[336]309 Đến tháng 1-1968, Không-Đoàn Tuần-Thám 40 Patrol Squadron Forty căn-cứ tại NAS Iwakuni Nhật-Bản gửi phi-cơ P3 đến Cam-Ranh như một trạm tiền-phương[337] để có thể tuần-thám được khắp Biển Đông

           

 P3 Orion là loại Phi-cơ Không-thám tối-tân

 

Từ khi có sự phối-hợp với Không-tuần Mỹ, một số Sĩ-Quan thuộc BTL/HQ/Pḥng 3 và Trung-Tâm Hành-Quân được huấn-luyện tại chỗ để làm Quan-sát-viên phụ-giúp HQHK trong trách-nhiệm nhân-diện tàu-thuyền Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-nhập.

 

Một Sĩ-Quan HQVN chuẩn-bị bay Không-Tuần.

 

            Trong suốt cuộc chiến, số lượng chiến-cụ của địch-quân di-chuyển sát bờ biển không có bao nhiêu so-sánh với số lượng chúng xâm-nhập từ ngoài khơi mang vào. Hầu hết những khám-phá đầu-tiên về xâm-nhập của Cộng-SảnBắc-Việt đều do các phi-cơ thực-hiện. Các thuyền lớn bằng gỗ và tất cả tàu chuyển-vận bằng sắt trọng-tải 100 tấn thuộc Lữ-Đoàn 125 của HQ Bắc-Việt quá nửa đều bị t́m thấy trước từ những vùng viễn-duyên.

 

Những SL may mắn

            Khi cuộc chiến chống Cộng khốc-liệt tốn-hao xương máu quân-dân miền Nam quá nhiều, người ta vẫn ghi-nhận những chuyến tàu công-tác của HQ Cộng-Sản không bị tiêu-diệt. Nhiều-chiếc SL đă được tự-do trở lại Bắc-Việt.

Những con tàu tốt số này thoát chết chỉ v́ HQVN và HQHK tôn-trọng một luật-lệ do chính VNCH đặt ra: không bao giờ tấn-công một "trawler" xâm-nhập nếu chúng không đi vào lănh-hải 3 Hải-lư (Sắc-lệnh quy-định hải-phận số 081NG ngày 27-04-1965)[338].

Chỉ có một trường-hợp hăn-hữu, khi chiếc tàu số 645 của chúng đă xâm-nhập vịnh Phú-Quốc đang chạy trở ra khơi, bị Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ. 4 bắn ch́m tại hai chục Hải-lư cách bờ. Quyết-định này sở-dĩ được đưa ra v́ lư-do tàu 645 này đă lỳ-lợm cố gắng thử xâm-nhập mấy lần.

Có cả những tàu sắt đă vào vùng lănh-hải VNCH rồi lại quay ra ngoài, hay bỏ nửa chừng chuyến công-tác quay về bến xuất-phát đều không bị tấn-công. Những hải-lộ của chúng đều được không-tuần ghi nhận.

Bỏ qua những bản-tin t́nh-báo không kiểm-chứng, những con tàu xâm-nhập sau đây được coi như "ân-xá". Tài-liệu c̣n ghi lại trong các sách sử-liệu Hoa-Kỳ và Việt-Nam như sau:

Ngày 31-12-1965, Khu-Trục-Hạm Hissem (DER 400) khám-phá khám-phá một tàu ngoài khơi Cà-Mau. Khi biết bại-lộ, tàu này quay trở ra khơi quay về Bắc.

Sau nhiều-ngày bị theo dơi tại ngoài hải-phận B́nh-Định trong tháng 12-1966, một chiếc tàu Bắc-Việt bỏ đi, không bị Hải-Quân Việt-Nam và Hoa-Kỳ tấn-công.

Từ tháng 7 đến cuối năm 1967, t́nh-h́nh xâm-nhập tạm yên được mấy tháng. Sau Tết Mậu-Thân, v́ vấn-đề sống c̣n của quân Bắc-Việt đang chiến-đấu tại miền Nam, Hà-Nội khẩn-cấp gửi tới 5 chiếc tàu xâm-nhập ra đi trong một tháng (tháng 2-1968) hy-vọng đưa quân-dụng tiếp-cứu đồng bọn. Cả 5 năm chiếc bị theo dơi, tuy vậy chỉ có 3 tàu bị tiêu-diệt khi chúng vào sát bờ, cố-ư đổ-bộ quân-dụng.

 

ACTOVRAD và các Đài Kiểm-Báo

Chương-tŕnh ACTOV của HQHK và SCATTOR của LLTD/HK đă giúp Hải-Quân Việt-Nam đủ phương-tiện để kiểm-soát vùng cận-duyên. Khi Hoa-Kỳ rút lui, họ cũng rút đi hết các phi-cơ không-thám. Chương-tŕnh ACTOVRAD (Accelerated Turnover of Radar to Vietnam) nhằm xây-dựng hệ-thống Đài Kiểm-Báo dọc duyên-hải để thay thế không-tuần, phát-hiện các tàu địch xâm-nhập từ ngoài khơi.

Theo Edward Marolda, hai chương-tŕnh ACTOVRAD và ACTOVLOG trách-nhiệm xây cất, tân-trang cơ-sở, doanh-trại và cả cư-xá cho quân-nhân các Đài Kiểm-Báo. Vào cuối năm 1970, 3 trong số 15 đài Kiểm-Báo được chuyển-giao.

Các đài Kiểm-Báo trên núi được trang-bị 2 bộ Radar UPS-1[339] để bảo-đảm sự hoạt-động liên-tục 24 giờ một ngày. Loại máy này nguyên của Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ dùng cho không-kiểm, tuy vậy cũng sử-dụng được cho hải-thám. Tầm hoạt-động radar ảnh-hưởng bởi khoảng xa của "đường chân trời radar". Các đài Kiểm-Báo do đó, cần phải đặt trên những núi cao. Theo báo-cáo, các thương-thuyền lớn như SeaLand cho hồi-ba trong khoảng cách 80 hải-lư. Các SL xâm-nhập của Bắc-Việt bị khám-phá một cách chắc-chắn trong tầm 40 hải-lư (73 Km). Những chiến-hạm chiến-đĩnh Việt-Nam đi tuần-tiễu đôi khi cũng được các Đài Kiểm-Báo hướng-dẫn hải-hành đến chận-bắt mục-tiêu

Kiểm-Báo-Hạm dùng radar của Hải-Quân, SPS-53J. Theo lư-thuyết radar có tầm hoạt-động 32 hải-lư, Trong những điều-kiện thuận-hảo, có lúc tầm xa tới ngoài 40 Hải-lư. Đối với những đối vật nhỏ như tàu thuyền dưới 30 m, tầm radar hữu-hiệu chừng 15-20 hải-lư.[340]

 

Chương-tŕnh Huấn-luyện OCS tại Hoa-Kỳ

Để cung-ứng đầy đủ nhân-viên trang-bị cho các tầu bè mới, Hải-Quân Việt-Nam bắt đầu gửi Sĩ-Quan, Sinh-Viên Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên du-học tại Hoa-Kỳ.

Năm 1969, một Phái-đoàn quan-sát gồm có Trung-Tá Khương-Hữu-Bá, Trung-Tá Bùi-Hữu-Thư, Thiếu-Tá Hà-Ngọc-Lương được gửi đi thăm các quân-trường Hoa-Kỳ, chú-tâm nhất đến trường Officer Candidate School (OCS) tại New Port Rhode Island. Khi về lại Sài-G̣n, phái-đoàn đă soạn-thảo chương-tŕnh huấn-luyện Sĩ-Quan cho Hải-Quân Việt-Nam tại trường OCS này.[341]

Các Sinh-Viên được BTL/HQ tuyển-lựa cho theo học các khóa OCS phải có đủ điều-kiện đặt ra và đă trải qua các giai-đoạn như sau:

- Có văn-bằng Tú-Tài 2.

- Đă hoàn-tất 12 tuần huấn-luyện Căn-Bản Quân-Sự tại TTHL/Quang-Trung hoặc tốt-nghiệp trường Bộ-Binh Thủ-Đức.

- Thi trắc-nghiệm Anh-Ngữ, đạt từ 70% trở lên.

            Trường OCS nằm trên một ḥn đảo lớn của Tiểu-Bang Rhode Island, gần trường Naval War College và Căn-Cứ Đệ-Lục Hải-Khu Hoa-Kỳ. Trường có diện-tích rộng lớn hơn TTHL/HQ/NT, có khả-năng cung-cấp nơi ăn chỗ ở cho trên 1300 khóa-sinh. Chương-tŕnh huấn-luyện các Sĩ-Quan OCS kéo dài 6 tháng, bao gồm các môn học chú-trọng nhiều-về thực-hành như sau: Vận-Chuyển, Hàng-Hải, Pḥng-Tai, Cứu Tàu Lâm-Nạn, Hải-Pháo, Lư-Thuyết Thuyền-Bè, Vận-Chuyển Chiến-Thuật, Căn-Bản Quân-Sự, Lănh-Đạo Chỉ-Huy và Hành-Quân tập-trận đổ-bộ.

            Sau 26 tuần-lễ thi tốt nghiệp, khóa-sinh tiếp-tục học về Chiến-Tranh Sông-Ng̣i (Brown Water Navy Operation) tại Treasure Island, San Francisco California. Có khoảng 2 tuần-lễ thực-tập trên những Giang-Đĩnh các loại như: Command Boat, Monitor, ASPB, Tango, LCVP, LCM, PBR, kể cả các Duyên-Tốc-Đĩnh ngoài biển như PCF. Trong thời-gian này có 3 ngày đêm tập-trận hành-quân Thủy-Bộ tại Mare Island California. Địa-h́nh và dàn-cảnh nơi đây rất giống chiến-trường VN. Những trận địch-quân phục-kích và Chiến-đĩnh đánh trả bằng vũ-khí đủ loại diễn-tiến như thật-sự ngoài chiến-trường.[342]

            Sau khi hồi-hương, một buổi lễ gắn cấp-bậc Chuẩn-Uư được tổ-chức trọng-thể tại BTL/Hạm-Đội. Một năm sau, các Sĩ-Quan này sẽ có Quyết-Định thăng-cấp Thiếu-Uư Trừ-bị. Số lượng Sinh-Viên Sĩ-Quan OCS được huấn-luyện mỗi khóa vào khoảng 60 người. Khóa cuối cùng là OCS 12 gồm có cả các Sĩ-Quan Bộ-Binh từ Thiếu-Uư đến Trung-Uư cũng được tham-dự. Sau khi măn khóa, họ về phục-vụ tại những đơn-vị Hải-Quân VN đủ loại.

            Khóa OCS đầu-tiên khai-giảng vào tháng 02 năm 1970, khóa 2 vào giữa tháng 03, cứ thế mỗi khóa cách nhau 6 tuần. Khóa OCS 12 hoàn-tất vào tháng 09 năm 1971. Gần xong chương-tŕnh OCS thuần-túy Việt-Nam, Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển qua việc huấn-luyện quy-mô lớn, có tính-cách quốc-tế hơn. Trong chương-tŕnh IOCS (International Officer Candidate School) này, 22 SVHQVN theo khóa đầu-tiên bên cạnh 1 Sĩ-Quan Ba-Tư, 7 Sĩ-Quan Thổ-Nhĩ-Kỳ, 8 Sĩ-Quan Á-Căn-Đ́nh, 2 Sĩ-Quan Campuchia, số c̣n lại là Sinh-Viên và Sĩ-Quan Hoa-Kỳ. Tất cả khóa đông-đảo tới 197 Sinh-Viên.

Tổng cộng khoảng trên 750 Sinh-Viên Việt-Nam đă thụ-huấn các khóa Trần-Hưng-Đạo tại Hoa-Kỳ.

 

 Chứng-chỉ Huấn-Luyện Giang-đĩnh

 

Chương-tŕnh Huấn-luyện Đoàn-Viên tại Hải-ngoại

Năm 1969 là năm mà nhiều Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-viên được gửi đi thụ-huấn tại các Trung-tâm Huấn-luyện Hoa-Kỳ ở Great Lakes, Michigan, và San Diego, California. Có nhiều-lớp căn-bản B1 và B2 về các ngành pḥng-tai, trọng pháo, thám-xuất, giám-lộ, cơ-khí, v..v..

Để nhận lănh các chiến-hạm mới, lúc đầu các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên được gửi đi học trước khi họ được đưa về San Diego hay Norfolk để lănh tầu. Thời-gian huấn-luyện thay đổi tùy theo chuyên-nghiệp, từ vài tháng đến một năm. Riêng việc chuẩn-bị lảnh tầu có thể chiếm tới 2 năm trời từ khi gửi nhân-viên đi cho đến khi chiến-hạm về cặp bến Sài-G̣n.[343]

Cũng trong năm 1969, Hải-Quân Mỹ đă giúp huấn-luyện một khoá tân-binh căn-bản duy-nhất. Khi khoá 50 tân-binh Hải-Quân đang học tại TTHL/HQ Cam Ranh, th́ được Phái-Bộ Viện-Trợ Quân-Sự Hoa-Kỳ tuyển chọn một nửa khoá đi thụ-huấn căn-bản quân-sự tại Hoa-Kỳ. Đại Uư CB Bùi Nhật Ích hướng-dẫn toán này. Khi trở về các Thủy-Thủ này đă tŕnh-diễn lối diễn-hành đặc-biệt của Hải-Quân Hoa-Kỳ rất tân-kỳ và đẹp mắt, nhưng không bao giờ áp-dụng cho Hải-Quân Việt-Nam.

 

 

Loại Tuần-Duyên-Hạm PG này có vận-tốc tối-đa tới 40 gút.

 

Tiêu-chuẩn Danh-hiệu và Số-hiệu các Chiến-hạm

            Kể từ khi Sĩ-Quan Việt-Nam nhận quyền Hạm-Trưởng, các Chiến-hạm đă được chỉ-định số vỏ tàu và danh-hiệu. Số lượng Chiến-hạm Chiến-đĩnh dần dần gia-tăng, nhiều-loại tàu thuyền mới trang-bị cho HQVN. Danh-hiệu và Số-hiệu các Chiến-hạm v́ vậy có một vài thay đổi theo tiêu-chuẩn mới.

Khoảng năm 1967, các danh-hiệu Nỏ-Thần (HQ. 225) và Linh-Kiếm (HQ. 226) của loại Trợ-Chiến-Hạm LSSL được thay đổi và thay-thế bằng những tên mới. Đó là tên của các Sĩ-Quan Hải-Quân đă anh-dũng hy-sinh trong cuộc chiến bảo-vệ Tự-Do: Nguyễn-Văn-Trụ, Lê-Trọng-Đàm, Lê-Văn-B́nh, Đoàn-Ngọc-Tảng, Lưu-Phú-Thọ, Nguyễn-Ngọc-Long, Nguyễn-Đức-Bổng.317

Sau đó, Các Tuần-Duyên-Đĩnh được mang tên các Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Hải-Quân anh-hùng đă hy-sinh để bảo-vệ chính-nghĩa Tự-Do: Lê Phước Đức, Lê-Văn-Ngà, Huỳnh-Văn-Cự, Nguyễn-Đào, Đào-Thục, Lê-Ngọc-Thanh, Nguyễn-Ngọc-Thạch, Đặng-Văn-Hoành, Lê-Đ́nh-Hùng, Trương-Tiến, Phạm-Ngọc-Châu, Đào-Văn-Đáng, Lê-Ngọc-Ẩn, Huỳnh-Văn-Ngàn, Trần-Lô, Bùi-Viết-Thanh, Nguyễn-An, Nguyễn-Ân, Ngô-Văn-Quyền, Văn-Diên, Hồ-Đăng-Là, Đàm-Thoại, Huỳnh-Bộ, Nguyễn-Kim-Hưng, Hồ-Duy, Trương-Ba.

Các Chiến-hạm Chủ-lực Khu-Trục-Hạm và Tuần-Dương-Hạm mang tên các Danh-tướng Hải-Quân Việt-Nam lừng-danh trong lịch-sử: Trần-Hưng-Đạo, Trần-Khánh-Dư; Trần-Quang-Khải, Trần-Nhật-Duật, Trần-B́nh-Trọng, Trần-Quốc-Toản, Phạm-Ngũ-Lăo, Lư-Thường-Kiệt, Ngô-Quyền.

Về số-hiệu, các Chiến-hạm được mang những chiến-số như sau:

Số 1 và 4 Khu-Trục-Hạm,

Số 2, 3, 5, 6, 15, 16, 17 Tuần-Dương-Hạm,

Số 07, 08, 09, 10, 11, 12, 13, 14 Hộ-Tống-Hạm,

Số từ 225 - 231 Trợ-Chiến-Hạm

Số từ 327 - 331 Giang-Pháo-Hạm

Số từ 400 - 401 Bệnh-Viện-Hạm

Số từ 402 - 406 Hải-Vận-Hạm

Số từ 500 - 505 Dương-Vận-Hạm

Số từ 600 - 619 Tuần-Duyên-Hạm

Số từ 700 - 725 Tuần-Duyên-Đĩnh

Số 800, 801 Dương-Vận-Hạm Cơ-Xưởng và         

Số 800 Cơ-Xưởng-Hạm [344].

 

Quan-niệm Tổ-Chức Đặc-Nhiệm.

            Một trong những tiến-bộ đáng kể nhất về tổ-chức HQVN là sự minh-định rất xác-đáng giữa các đơn-vị hành-chánh và các đơn-vị đặc-nhiệm.

Việc điều-hành các đơn-vị hành-chánh từ lâu đă được quy-định rơ-ràng. Các Đơn-Vị-Trưởng và nhân-viên của Ông đều nắm vững công-vụ phải làm. Theo với thời-gian, nhu-cầu hành-quân gia-tăng vượt qua mức đại-đơn-vị rồi liên đại-đơn-vị. Phương-thức tổ-chức Hải-Quân theo hệ-thống hành-chánh có tính-cách lănh-thổ đă lỗi-thời, không c̣n phù-hợp với t́nh-thế biến-chuyển mới.

Trong quan-niệm thành-lập lúc sơ-khởi, các đơn-vị Sông Ng̣i làm việc chung với các đơn-vị diện-địa trong Chi-Khu, Tiểu-Khu và Quân-Khu. Quan-niệm lưu-động phát-triển mạnh khi HQVN thành-lập Giang-Đoàn 27 XP. Với danh-nghiă Giang-Đoàn Tổng-Trừ-Bị, Giang-Đoàn này biệt-phái hoạt-động tại cả Miền Đông lẫn Miền Tây, với cả hai Quân-Đoàn III và IV. Giang-Đoàn 27 XP trang-bị bằng Tuần-Giang-Đĩnh RPC chạy nhanh, và Quân-Vận-Đĩnh LCM 8 là những giang-đĩnh chuyển-vận chiến-xa, sức chuyên-chở quân-sĩ gấp 3 lần Giang-Đoàn cũ và vận-tốc đường trường cũng cao hơn, tới 50%. Đôi khi v́ nhu-cầu hành-quân thay đổi, tuần này Giang-Đoàn phối-hợp với một Sư-Đoàn Vùng 3 Chiến-thuật, tuần tới lại làm việc với Sư-Đoàn khác tại Vùng 4 Chiến-thuật.

Càng về sau, Hải-Quân QVNCH càng có thêm nhiều-đại đơn-vị lưu-động mới, tầm cỡ to lớn hơn xưa, hoạt-động trong những khu-vực rộng lớn ngoài phạm-vi trách-nhiệm lănh-thổ của các Trung Đoàn, Sư-Đoàn, và cả Quân-Đoàn nữa. Lực-Lượng Thủy-Bộ, Lực-Lượng Ngăn-Chặn là những thành-phần tấn-công (assault) trong các cuộc hành-quân Thủy-bộ liên vùng. Lực-Lượng Tuần-Thám là thành-phần tuần-tiễu tiền-thám, cắt đứt các đường dây giao-liên của địch, hộ-tống và giữ-ǵn an-ninh thủy-tŕnh khắp lănh-thổ Vùng 1, Vùng 3 và Vùng 4 Chiến-thuật.

Thêm vào đó là các công-tác mới như hộ-tống thương-thuyền trên sông Cửu-Long, có khi kéo dài tới tận Nam-Vang, những đoàn Giang-vận chiến-lược tiếp-tế cho Thủ-đô cũng như những đoạn thủy-lộ huyết-mạch cả Miền Nam cũng như Miền Trung. Những cuộc hành-quân thêm phức-tạp, phối-hợp các Giang-Đoàn Xung-phong, Thủy-bộ, Tuần-Thám, Ngăn-chặn, Chiến-hạm, Bộ-binh, Không-trợ, Địa-phương-quân, Thiết-kỵ, Pháo-binh, Thủy-Quân Lục-Chiến, Quân-đội Đồng-minh...

 

Tổ-chức Căn-bản về Đặc-Nhiệm

            Trong tổ-chức hành-quân cấp Lực-Lượng, hệ-thống chỉ-huy căn-bản quy-định từ lớn đến nhỏ như sau:

Trước hết là Lực-Lượng Đặc-Nhiệm (LLĐN), theo thứ-tự đi xuống thấp là Đoàn: Liên, Phân, Chi, và nhỏ hơn là Đội: Liên-đội, Phân-đội, Chi-đội... nghĩa là:

- Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm (LĐĐN)

- Phân-Đoàn Đặc-Nhiệm (PĐĐN)

- Chi-Đoàn Đặc-Nhiệm (CĐĐN)

- Liên-đội Đặc-Nhiệm

- Phân-đội Đặc-Nhiệm        

- Chi-đội Đặc-Nhiệm.

Thông-thường trên thực-tế, tổ-chức đặc-nhiệm xem ra dản-dị hơn. Lấy thí-dụ của Lực-Lượng Duyên-pḥng trước khi giải-tán vào cuối năm 1973, hệ-thống chỉ-huy như sau:

Tư-lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng LLĐNDP 213 (CTF 115) với phương-tiện điều-động Trung-Tâm Hành-Quân của Lực-Lượng.

            Dưới Tư-Lệnh có 5 Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Duyên-Pḥng:

- CHT/LĐĐNDP 213.1 (CTG 115.1),

- CHT/LĐĐNDP 213.2 (CTG 115.2),

- CHT/LĐĐNDP 213.3 (CTG 115.3),

- CHT/LĐĐNDP 213.4 (CTG 115.4),

- CHT/LĐĐNDP 213.5 thành-lập sau cùng.

Phương-tiện điều-động của mỗi CHT/LĐĐNDP (CTG - Comander Task Group) là Trung-Tâm Kiểm-Soát Duyên-Hải (C.S.C - Coastal serveillence Center).

Dưới CHT/LĐĐNDP có thể có 2 Chỉ-Huy-Trưởng Phân Đoàn Đặc-Nhiệm - CHT/PĐĐNDP (CTU 115.2.1 - Commander Task Unit). Đó là trường-hợp của LĐĐNDP 213.2 gồm có:

- CHT/PĐĐNDP 213.2.1 (CTU 115.2.1) đồn-trú tại Qui Nhơn,

- CHT/PĐĐNDP 213.2.2 (CTU 115.2.2) đồn-trú tại CamRanh.

Dưới CHT/LĐĐNDP có Chỉ-Huy-Trưởng Chi Đoàn Đặc-Nhiệm CHT/CĐĐNDP (CTE: Commander Task Element). Chi Đoàn Đặc-Nhiệm chỉ được thành-lập khi có nhu-cầu hành-quân.

            Tuy vậy sau khi các Lực-Lượng Đặc-Nhiệm (LLĐN) được thành-lập trong Sông và ngoài Biển, nhu-cầu hành-quân vẫn đ̣i-hỏi một vị Tư-Lệnh cao-cấp hơn phối-hợp hành-quân liên Lực-lượng. Sau chót, Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-Nhiệm được chỉ-định để chỉ-huy những cuộc hành-quân lớn, trong đó có nhiều-Lực-Lượng Đặc-Nhiệm tham-dự.

Văn-thư căn-bản của BTL/HQ và Huấn-Lệnh Hành-Quân của các Lực-Lương Đặc-nhiệm đều có quy-định những quy-luật về phương-thức tổ-chức đặc-nhiệm này.[345]

 

 

Hệ-thống Hành-Chánh của Lực-Lượng Duyên-Pḥng sau khi được Hoa-Kỳ (CTF 115) chuyển-giao.

 

 

 

Hệ-thống Chỉ-Huy Đặc-Nhiệm CTF 115 của HQHK.

 

Những Diễn-tiến Tổ-Chức của Hạm-Đội Đặc-Nhiêm.

Trong khi điều-hành Chương-tŕnh ACTOV dự-trù cho kế-hoạch hành-quân, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Pḥng 3 đă phác-họa ra tổ-chức hai Hạm-đội Đặc-Nhiệm (HĐĐN) là HĐĐN 21 và HĐĐN 22. Theo tài-liệu của Edward J. Marolda viết trong cuốn sách "By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia", khi TL/HQVN nhận quyền chỉ-huy chiến-dịch Trần-Hưng-Đạo vào tháng 7 năm 1970, thành-phần hai Hạm-đội được tổ-chức theo sơ-đồ (Vietnamese Navy Operational Commands, July 1970 [346]320) mà chúng tôi xin chép lại nguyên-văn như sau:

 

Task Fleet 21 SEALORDS Operations

Task Force 210 Special

Task Force 211 Amphibious

Task Force 212 Trần Hung Dao I

Task Force 213 Coastal

Task Force 214 Giant Slingshot

Task Force 215 Fleet Command

Task Force 216 Ready Deck

Task Force 217 4th Riverine Area

Task Fleet 22 Non-SEALORDS Operations

Task Force 221 1st Coastal Zone

Task Force 222 2d Coastal Zone

Task Force 223 3d Coastal Zone

Task Force 224 4th Coastal Zone

Task Force 225 3d Riverine Area

Task Force 226 4th Riverine Area

Task Force 227 Rung Sat Special Zone

Task Force 228 Capital Military District

Thời-gian sau đó, quan-niệm về hai HĐĐN này thay đổi, có khuynh-hướng để trở thành HĐĐN 21 trong Sông và HĐĐN 22 ngoài Biển. Tại Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân đă có hai giới-chức được chỉ-định nhiệm-vụ Tham-Mưu cao-cấp trợ-giúp TL/HQVN điều-động hành-quân là

- Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Sông.

- Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Biển.

Cho đến khi QLVNCH bị tan ră vào năm 1975, chưa có Sĩ-Quan nào chính-thức được bổ-nhiệm riêng-biệt vào chức-vụ Tư-Lệnh hai Hạm-Đội Đặc-Nhiệm Sông và Biển. Bản Cấp-số cũng chưa được BTTM/QLVNCH chấp-thuận ban-hành.

Chức-vụ Tư-Lệnh HĐĐN 21 trong những năm cuối 1974-1975 do Phó Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng TL/V4SN kiêm-nhiệm.[347]321 Tài-liệu khả-tín thu-nhặt được không thấy có ghi danh-tánh vị Tư-Lệnh HĐĐN 22.[348]

Về Hạm-đội Biển, theo nhà nghiên-cứu Phạm-Phong-Dinh, gồm có các thành-phần sau:

- Vùng 1 Duyên-Hải

- Vùng 2 Duyên-Hải

- Vùng 3 Duyên-Hải

- Vùng 4 Duyên-Hải

- Vùng 5 Duyên-Hải

- Các Chiến-hạm, Chiến-đĩnh tăng-phái.[349]

 

Năm 1971

            Vào đầu thập-niên 1970, tinh-thần người lính thủy rất cao. Hải-Quân đă có những chiến-hạm lớn như Khu-Trục-Hạm, Tuần-Dương-Hạm[350]324. Sĩ-Quan và Đoàn-Viên được nhiều-cơ-hội xuất-ngoại công-du, thực-tập, huấn-luyện, du-học, nhận-lănh chiến-hạm...

            Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển-giao cho Hải-Quân Việt-Nam:

- Hai Khu-truc-Hạm Tiền-Thám (DER - Radar Picket Escort Ship[351]) Trần-Hưng-Đạo HQ. 1 và Trần-Khánh-Dư, HQ. 4.

- Bốn Tuần-dương-Hạm (WHEC - High Endurance Cutter[352]) Trần Quang Khải HQ. 02, Trần Nhật Duật HQ. 3, Trần B́nh Trọng HQ. 5, Trần Quốc Toản HQ. 6.

- Hai Dương-Vận-Hạm loại Cơ-Xưởng (LST) Cần Thơ HQ. 801, Vĩnh Long HQ. 802.

 

Các khóa Sĩ-Quan Đặc-biệt

Cuối năm 1971, sau khi khóa 22 ra trường th́ Trung-Tâm chuẩn-bị tiếp-nhận thêm các Sĩ-Quan khóa-sinh, được gọi là khóa Sĩ-Quan Đặc-Biệt. Đó là những Sĩ-Quan có cấp-bậc từ Chuẩn-Úy đến Thiếu-Tá đă tốt-nghiệp tại các quân-trường Bộ-Binh (tại Đà-Lạt và Thủ-Đức) đang làm việc tại các đơn-vị bờ của Hải-Quân, kể cả các Sĩ-Quan ngành Cảnh-Sát thuộc các Lực-Lượng Giang-Cảnh. Thời-gian thụ-huấn là 6 tháng. Các môn chính nặng về Hải-Nghiệp như Hàng-Hải lư-thuyết, Vận-Chuyển lư-thuyết, Khí-Tượng, Vận-Chuyển Chiến-Thuật, một số môn phụ do Khối Văn-Hóa-Vụ chọn lựa và soạn-thảo riêng cho thích-hợp với nhu-cầu.

Khi tốt-nghiệp khóa-sinh vẫn mang cấp-bậc như cũ nhưng đổi chuyên-nghiệp sang ngành chỉ-huy, danh xưng bây giờ là Hải-Quân[353].Các Sĩ-Quan này được chỉ-định phục-vụ trên các chiến-hạm.[354]

 

Chương-Tŕnh Sĩ-Quan Hải-Quân Ngành Hiện-Dịch

Hải-Quân là một Quân-Chủng gồm những quân-nhân có ngành-nghề chuyên-biệt. Tuy vậy lịch-sử Hải-Quân VNCH có ghi một điều-thật là trái với lẽ thường: trường Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam chỉ đào-tạo Sĩ-Quan Hải-Quân Trừ-bị.

Từ chỗ đứng khiêm-nhường của ḿnh trong quân-lực, Hải-Quân đă không thể nào tự-ư giải-quyết được vấn-đề cho thỏa-đáng. Bộ Quốc-Pḥng và Bộ Tổng Tham-Mưu đă cung-cấp Sĩ-Quan Hiện-Dịch cho Hải-Quân Việt-Nam với cách riêng của họ. Theo kế-hoạch này, Hải-Quân chỉ được cung-cấp các Hải-Quân Thiếu-Úy Hiện-dịch qua Trường Vơ-Bị Quốc-Gia mà thôi. Khóa 16 là thử-nghiệm đầu-tiên nhưng quá ít. Chỉ có 7 Sĩ-Quan tham-dự và tốt-nghiệp khóa học mà thôi.

Việc cung-cấp các Sĩ-Quan Hiện-dịch không được thi-hành đều đặn, có lẽ v́ nhu-cầu Sĩ-Quan cho lục-quân quá lớn. 

Kể từ năm 1971, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân huấn-luyện 3 tháng chuyên-nghiệp cho các khoá-sinh trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt trong mùa văn-hóa. Đầu năm 1973 có 30 Sinh-Viên Sĩ-Quan Đà-Lạt thuộc 2 khóa 24 và 25 đến thụ-huấn 3 tháng lư-thuyết. Sau khi tốt-nghiệp, các Sĩ-Quan này sẽ phục-vụ Hải-Quân ngành Hiện-dịch.

 

Hoa-Kỳ, đến cũng nhanh mà đi cũng chóng

            Cuộc Hành-Quân Trần-Hưng-Đạo vượt biên năm 1970 mở đầu cho chương-tŕnh chuyển-giao các cuộc hành-quân Sealords của Hoa-Kỳ thành các cuộc hành-quân Trần-Hưng-Đạo do Hải-Quân Việt-Nam đảm-trách. Vào tháng 6 năm 1971, công-việc chuyển-giao đă hoàn-tất[355]. Về phía Hoa-Kỳ, ngoại trừ một thành-phần Trực-thăng Vơ-trang, Lực-Lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam đă hoàn-toàn triệt-thối khỏi Việt-Nam. Một Sĩ-Quan HQVN cấp Đô-Đốc đă nhận-xét như sau: "Âu cũng là một đặc-tính của Hoa-Kỳ, đến cũng nhanh mà đi cũng chóng."[356]

            Hoa-Kỳ đă vội-vàng đổ-quân tham-chiếm, rồi lại rút lui nhanh chóng khi chưa đạt được chiến-thắng sau cùng. Sự hiện-diện ngắn-hạn của Quân-Đội Hoa-Kỳ đă tác-hại đến khả-năng quyết-thắng của Quân-Lực VNCH. Bàn về đường lối chiến-tranh của Mỹ thời đó, Giáo-Sư Phạm-Kim-Vinh đă viết rằng:

            “... Tại Hội-nghị Paris 1970-1973, nước Mỹ đạt thỏa-hiệp (nhục nhă) với Hà-Nội để cho quân Mỹ được hồi-hương (hay trốn chạy) trong an-toàn. Trong khi đó, quân Bắc-Việt không hề được Mỹ yêu-cầu phải rút ra khỏi lănh-thổ nam Việt-Nam.

Khi mang quân tới Nam Việt-Nam, người Mỹ đă làm tiêu-tan chính-nghĩa của Nam Việt-Nam. Khi (hèn nhát) rút đi người Mỹ làm tiêu-tan chút chính-nghĩa c̣n sót lại của Việt-Nam Cộng-Ḥa qua việc thừa-nhận cái quái-thai chính-trị của CS Hà-Nội là Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam...” [357]


 

 

Chương 5

 

Giai-đoạn Trưởng-thành

(1972-1974)

 

Giai-đoạn trưởng-thành của Hải-Quân VNCH được kể từ cuối năm 1972.về sau. Quân-số Hải-Quân không kể TQLC vượt hơn 40,000 Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên.

 

Năm 1972

            Hải-Quân Việt-Nam nhận tiếp:

- Ba Tuần-dương-Hạm (WHEC) Phạm Ngũ Lăo HQ. 15, Lư Thường Kiệt, HQ. 16, và Ngô Quyền, HQ. 17.

- Một Hỏa-Vận-Hạm, HQ. 475.

- Và hầu hết các Căn-cứ Hải-Quân do Hải-Quân Hoa-Kỳ tạo-lập trước đây.

            Bốn Sĩ-Quan tu-nghiệp tại trường Hậu Đại-học Naval Postgraduate School ở Monterey, California.

            Chương-tŕnh ACTOVLOG báo-cáo các dự-án sau cùng đă xong vào tháng 4 năm 1972. Các Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận Nhà-Bè, B́nh-Thủy, Cam-Ranh, Đà-Nẵng đă hoàn-toàn thuộc về Hải-Quân Việt-Nam.

Chương-tŕnh ACTOVRAD hoàn-tất việc thiết-trí và bàn-giao 16 đài radar Kiểm-Báo (trong đó có một Kiểm-Báo-Hạm) vào tháng 8 năm 1972.

Ngày Quân-lực 1972, 5 Sĩ-Quan cấp Đại-tá gồm TMT/HQ và 4 Tư-lệnh Lực-Lượng được thăng cấp Phó Đề-Đốc.

Tính tới cuối năm 1972, tổng-số chiến-hạm, chiến-đĩnh và chiến-thuyền đă tăng lên đến hơn 1,500 chiếc, cùng 16 Căn-Cứ Yểm-Trợ và Tiền-Doanh Yểm-Trợ Tiếp-vận.[358]

 

Thủy-Quân Lục-Chiến và Chiến-trận Vùng Giới-Tuyến

Trong năm này, Bắc-Quân ào-ạt tấn-công vào lănh-thổ Vùng I, II và III của Việt-Nam Cộng-Ḥa. Mở màn được ít lâu, cả ba mũi tiến-công vào Ban-Mê-Thuột, B́nh-Long và Quảng-Trị đều bị chặn lại. Thấy khó đạt được ư-định chiếm-đóng Ban-Mê-Thuột hay B́nh-Long, Trung-Ương đảng Cộng-Sản quyết-định đổi diện thành điểm, tăng-cường thêm lực-lượng nhắm vào Vùng giới-tuyến là nơi gần với hậu-phương Bắc-Việt hơn cả. Cuộc chiến bùng nổ mạnh hơn tại Quảng Trị vào cuối tháng 3/1972, sôi-động nhất là vào Mùa Xuân, Hè 1972. Hải-Quân VNCH tại các Vùng duyên-hải đă sử-dụng tối-đa khả-năng trang-bị để yểm-trợ cho những đơn-vị bộ-chiến hoạt-động tại vùng ven biển của hai quận Hải-Lăng và Triệu Phong.[359] 

            Trên bộ, trận Quảng-Trị được mô-tả là khủng-khiếp, ác-liệt, đẫm máu không thua ǵ các trận đánh đẫm máu khác trên thế-giới. Sau khi chiếm được Thị-Xă Quảng-Trị, Cộng-Quân bị Lữ-Đoàn 369 TQLC chặn đứng bước tiến vào ngày 3-5-72.

            Một vài hoạt-động phối-hợp giữ các Lực-Lượng đồng-minh Việt-Mỹ rất có hiệu-quả tại khu-vực duyên-hải gần hỏa-tuyến như sau:

- Ngày 13-5-72, dùng trực-thăng TQLC Hoa Kỳ trên Chiến-Hạm Okinawa (LPH 3), TQLC Việt-Nam bất-thần đổ-bộ nhiều-cây-số đằng sau pḥng-tuyến của Cộng-Sản.

- Ngày 24-5-72, rồi liên-tiếp cả ngày 29-6-72, với các phương-tiện thủy-bộ của Hải-Quân, Lục-Quân VNCH đă đổ-bộ đánh vào sườn của địch và chiếm cả hậu-tuyến của chúng.

Mũi dùi TQLC từ phía bờ biển đánh lên, phối-hợp với sự yểm-trợ phi-pháo và hải-pháo đă đẩy Cộng-Quân Bắc-Việt phải rút lui.

Sau đó Sư-Đoàn TQLC và các lực-lượng bạn đă ngày đêm giao-tranh với địch, dành lại từng tấc đất đă mất. Ngày 15-9-1972 vào hồi 12 giờ 45 phút trưa, chính TQLC đă cắm được cờ VNCH trở lại trên cổ-thành Quảng-Trị.[360]            

            Các cuộc yểm-trợ hải-pháo của các Chiến-hạm Hạm-Đội rất đắc-lực,[361] giúp quân-lực VNCH giữ vững các vị-trí khác dọc duyên-hải Vùng 1 và Vùng 2 Chiến-Thuật.

 

Những cuộc Hành-Quân Tiếp-cứu

Những cuộc Hành-Quân tiếp-cứu trong chiến-tranh xảy ra rất thường nhưng trường-hợp cứu Trung-Tá Hambleton khi thi-hành phi-vụ mật "BAT 21" ở vùng gần Giới-tuyến 17 là nổi tiếng hơn cả. Có cả sách báo tiểu-thuyết đă viết và quay thành phim ảnh vế chuyến công-tác cứu-cấp gian-nan này.

Ha-Sĩ I Người Nhái Hải-Quân Việt-Nam Nguyễn-Văn-Kiệt với thành-tích phi thường của anh và Hải-Quân Đại-Úy Tom Norris đă cứu thoát Trung Tá Hambleton thuộc Không-Lực Hoa-Kỳ khi phản-lực-cơ "Điện-Tử Tiền-Thám" (Electronic Early Warning) của ông này bị hỏa-lực pḥng-không của VC bắn rơi tại Đông Hà, Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Chiến-công này đă được HQHK vinh-danh. HQ Đại-Úy Norris đă được trao tặng huy-chương cao-quư nhất của Quân-đội Hoa-Kỳ Medal of Honor. Riêng anh Kiệt là người "ngoại quốc" (không phải là người Hoa-Kỳ) duy nhấttrong cuộc chiến-tranh Việt-Nam được nhận-lănh Hải-Quân Huân Công Bội Tinh (Navy Cross) cao-quư nhất của Hải-Quân Hoa-Kỳ.

 

Trung-Cộng và những bao gạo tiếp-tế cho CS Việt-Nam

            Trong nỗ-lực đẩy mạnh cuộc chiến-tranh xâm-lược Việt-Nam Cộng-Ḥa, Cộng-Sản đă đưa toàn-thể miền Bắc lâm vào hoàn-cảnh kiệt-quệ. Đặc-biệt dân-chúng những tỉnh sát Vĩ-tuyến 17 rất đói khổ. V́ bom đạn đổ xuống khu-vực gần đầu đường ṃn Hồ-Chí-Minh, dân Quảng-B́nh đă nhiều-năm không canh-tác được ruộng vườn, trong khi đó lương-thực lại bị Cộng-Sản dùng nuôi Quân-đội. Trong những ngày đen tối nhất của quân xâm-nhập, Trung-Cộng đă tiếp-tế cho đồng-bọn Cộng-Sản Việt-Nam bằng đường biển. V́ chúng không có phương-tiện tân-tiến như máy bay thả dù, lại không giám đương đầu với Hải-Quân VNCH và Đồng-minh; Trung-Cộng dùng những tàu vơ-trang giả-dạng thương-thuyền đi làm việc lén-lút. Từ hải-phận quốc-tế, Trung-Cộng cho các bao gạo 100 kg bọc trong nhiều-lớp nylon rồi thả trôi từ ngoài xa, hy-vọng ḍng nước và gió mùa Đông-Bắc sẽ đẩy gạo vào bờ.

            Do sự tính-toán sai-lầm gió nước, rất nhiều-gạo tiếp-tế Công-Sản như vậy xuôi Nam, lọt vào tay người phe Quốc-gia. Các chiến-hạm, chiến-đĩnh tầu tuần-dương Vùng 1 Duyên-Hải vớt được rất nhiều, có khi dến hàng trăm bao gạo trong một chuyến công-tác.

 

Năm 1973

            Sau ngày kư-kết Hiệp-Định Ngừng Bắn 27-1-1973, tất cả quân-nhân Hoa-Kỳ rút ra khỏi Việt-Nam. Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam NAVFORV được chính-thức giải-tán vào ngày 29 tháng 3 năm 1973.

Từ khi HQHK rút đi tháng 4/1972 đến cuối tháng 1/1973, Hải-Quân VNCH tại Vùng 1 Duyên-Hải và một số chiến-hạm tăng-phái đóng góp đáng kể vào những chiến-thắng chung của QL/VNCH, đặc-biệt trong cuộc hành-quân tổng-phản-công tái-chiếm Sa Huỳnh vào tháng 2/1973.

Được hưởng một ngân-khoản 8 triệu Mỹ-kim gia-tăng kinh-phí cải-thiện, Hải-Quân Công-Xưởng đă đào-tạo được một đội-ngũ chuyên-viên kỹ-thuật cao. Cho đến đầu năm1973, HQCX đă hoàn-tất việc hạ-thủy 58 chiến-thuyền ferro-ciment[362], trong đó một số Duyên-Tốc-Đĩnh PCF với kiểu vẽ vỏ tàu rất đẹp mắt. Hơn nữa, HQCX c̣n đủ khả-năng đại-kỳ các chiến-hạm tối-tân nhất của HQVN lúc đó.

 

Vỏ tàu Duyên-Tốc-Đĩnh PCF ferro-ciment trông rất đẹp mắt.

 

Về Huấn-luyện, đầu năm 1973 có 30 Sinh-Viên Sĩ-Quan Đà-Lạt thuộc 2 khóa 24 và 25 đến thụ-huấn 3 tháng lư-thuyết. Các khóa 3 tháng của Sinh-Viên trường Vơ-Bị Đà-Lạt th́ chú trọng các môn Hải-Nghiệp như Vận-Chuyển, Hành-Hải lư-thuyết và thực-hành.

Trong năm này, 6 Sĩ-Quan Hải-Quân được sang Hoa-Kỳ tu-nghiệp tại Naval Postgraduate School ở Monterey, California.[363]

- Các khoá huấn-luyện tiếp-tục tiến-triển, đặc-biệt về chỉ-huy, tham-mưu.

- Để đánh dấu sự trưởng-thành, nhằm ngày kỷ-niệm Thánh-Tổ (20 tháng 8 âm-lịch), các đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam tổ-chức một cuộc tŕnh-diễn lớn lao trên sông Sài-G̣n. Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu đă đến chủ-tọa cuộc lễ.[364]

 

Bản báo-cáo T́nh-trạng HQ Việt-Nam hóa khi HQHK triệt-thoái

            Như một đoạn trên đă tŕnh-bày, Hải-Quân Hoa-Kỳ nhảy vào trực-tiếp tham-chiến trong khoảng 3 năm th́ từ từ rút ra khỏi Việt-Nam. Sau khi hoàn-tất giai-đoạn trợ-giúp HQVN bành-trướng, Bộ Tư-Lệnh HQHK tại Việt-Nam (COMNAVFORV) đă soạn-thảo một báo-cáo. Bản tường-tŕnh tổng-kết được trực-tiếp gửi lên Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương (CINCPACFLT), thông-báo Bộ Quốc-Pḥng Hoa-Kỳ và các cơ-quan liên-hệ. Nhan-đề tài-liệu Mật là "Bản báo-cáo t́nh-trạng Việt-Nam hóa khi HQHK triệt-thoái". Phần nhận-xét về Hải-Quân Việt-Nam được tường-tŕnh như sau:

"Kết-luận lại, Hải-Quân Việt-Nam và Thủy-Quân Lục-chiến Việt-Nam đă được lượng-giá cả hai ngành là thành-công và đạt được tiêu-chuẩn đă ước-định, đủ khả-năng thi-hành nhiệm-vụ giao-phó ngay trong hiện-tại và cả trong tương-lai cận kề. Riêng trường-hợp HQVN, khả-năng tác-chiến hiện nay đă đầy đủ nhưng để cho tổ-chức này tiến được tới mức tự-túc, chắc chắn cần phải có những biện-pháp cải-thiện các khuyết-điểm"[365].

 

Vi-Phạm Ngưng bắn

            Kể từ tháng 02 năm 1973, mặc dù Cộng-SảnBắc-Việt đă kư-kết hiệp-định ngưng bắn, tái-lập ḥa-b́nh Việt-Nam tại Ba Lê ngày 27 tháng 01 năm 1973, nhưng vẫn ngoan-cố vi-phạm, công-khai tấn-công vào các Lực-Lượng thuộc Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa. Về phía Hải-Quân đă ghi-nhận tất cả 827 vụ vi-phạm do CSBV gây ra cho các đơn-vị Hải-Quân, gồm có: 575 vụ tấn-công, 155 vụ pháo-kích và 97 vụ đánh ḿn, gài lựu-đạn. Để tự-vệ, Hải-Quân đă gây thiệt-hại cho CSBV trong thời-gian này như sau: 263 CSBV bị giết và16 CSBV bị bắt, ngoài ra ta c̣n tịch-thu 57 súng cá-nhân và phá-hủy hàng trăm quả ḿn, lựu-đạn...

 

Hải-chiến Hoàng-Sa          

Trong ngày 19 tháng 01 năm 1974, Lực-Lượng Hải-Quân Việt-Nam gồm có 1 Khu-Trục-Hạm, 2 Tuần-Dương-Hạm và1 Hộ-Tống-Hạm đă anh-dũng chiến-đấu chống trả cuộc xâm-lăng của Đế-quốc Trung-Cộng vào quần-đảo Hoàng-Sa thuộc lănh-thổ Việt-Nam Cộng-Ḥa.[366]

            Nhận-xét về tương-quan lực-lượng Hải-Quân đôi bên trong trận Hải-chiến này, Đại-Tướng Cao-Văn-Viên, Tổng Tham-Mưu-Trưởng QLVNCH thời ấy đă viết như sau: Hải-Quân Việt-Nam được trang-bị cho nhiệm-vụ chính-yếu là tuần-tiễu các vùng sông ng̣i và ngăn-chặn địch-Quân xâm-nhập vào vùng duyên-hải, thực-sự không phải là đối-thủ của một Hải-Quân tân-tiến như Hải-Quân Trung-Cộng trong một trận Hải-chiến tuy ngắn ngủi nhưng ác-liệt tại Hoàng-Sa vào năm 1974.[367]

            Có nhiều-bài viết và sách báo quốc-tế đă bênh-vực cho lẽ phải chủ-quyền của Việt-Nam. Riêng pho sách lớn có uy-tín, bàn-luận về Hải-lực Thế-giới "Conway's All the World's Fighting Ships 1947-1982" lại c̣n đề-cao tinh-thần kiên-quyết của HQVN chống xâm-lược. Robert Gardiner viết rằng: "Không những chiến-hạm Việt-Nam đă dũng-cảm bắn ch́m hai tàu địch, gây hư-hại nặng cho 2 chiếc khác của Siêu-cường Trung-Cộng ngoài Hoàng-Sa, mà lại c̣n gửi thêm quân pḥng-thủ tăng-cường cho Trường-Sa tiếp-tục chặn đứng âm-mưu lấn-chiếm của chúng."[368]

           

Thiệt-hại của Hải-Quân Trung-Cộng tại Hoàng-Sa

            Nguồn tài-liệu sau đây đang được phổ-biến rộng-răi. Tác-giả của nó có lẽ sẽ cung-cấp thêm chi-tiết. Hy-vọng về tương-lai người đọc có sự kiểm-chứng:

Sau hơn một phần tư thế-kỷ bưng-bít về thiệt-hại của họ, rồi Trung-Cộng cũng có sơ-hở. Lợi-dụng một chuyến đi công-tác y-khoa tại Hải-Nam, khi vào thăm nghĩa-trang Quân-đội Nhân-dân Trung-Quốc, Bác-sĩ Trần-Đại-Sỹ đă ghi nhận một số tử-sĩ của HQ Trung-Cộng với những chi-tiết như sau:

- Hộ tống hạm Kronstadt, kư số 271, Hạm trưởng là Đại-tá Vương Kỳ Uy, tử thương.
- Hộ tống hạm Kronstadt, kư số 274, Hạm trưởng là Đại-tá Quan Đức, tử thương.
Đây là Soái hạm của chiến dịch.

- Tư lệnh mặt trận là Đô-đốc Phương Quang Kinh, Tư-lệnh phó Hạm đội Nam-hải của Trung-quốc với bộ Tham mưu Hành-quân đi trên chiến hạm 274. Khoảng giữa trận chiến, ông cùng bộ Tham mưu tử thương (1 Đô-đốc, 4 Đại-tá, 6 Trung-tá, 2 Thiếu-tá, và 7 Sĩ-Quan cấp úy)

- Trục lôi hạm, kư số 389, Hạm trưởng là Trung-tá Triệu Quát, tử thương

- Trục lôi hạm, kư số 396, Hạm trưởng là Đại-tá Diệp Mạnh Hải, tử thương.

Bác-sĩ Trần-Đại-Sỹ b́nh-luận về truyền-thống hải-chiến của Hải-Quân Việt-Nam và trận đụng-độ Hoàng-Sa như sau:

- Trong lịch sử 5000 năm của Hoa-Việt, chiến tranh liên miên. Về bộ chiến, kị chiến th́ cả hai bên có khi thắng khi bại. Duy về thủy chiến, bao giờ Việt-Nam cũng thắng trận.

- Năm 1974, th́nh ĺnh Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa (họ gọi là Tây-sa) từ Việt-Nam Cộng-Ḥa. Trận chiến diễn ra ngắn ngủi và ác-liệt, phía Trung-quốc bị thiệt-hải gấp ba lần VNCH (về nhân mạng, về chiến hạm, tài liệu này tôi có từ phía Trung-quốc). Nhưng VNCH v́ quân ít, vũ khí chỉ có đại bác, chiến hạm nhỏ. Trong khi Trung-quốc có hỏa tiễn địa-địa, chiến hạm lớn đông gấp bội VNCH. VNCH lại đang có nội chiến, phải đương đầu với quân đội VNDCCH, v́ vậy VNCH phải bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa.

- Lực-lượng Hải-quân VNCH rất thiện chiến, tác xạ rất chính xác, các Sĩ-Quan và Đoàn-viên đều được huấn luyện theo tiêu chuẩn Âu-Mỹ, thêm kinh nghiệm chiến-trường Việt-Nam. Ngay loạt đạn đầu tiên đă khiến 4 Hạm-Trưởng Trung-quốc tử trận.[369]

 

Hải-Quân Công-Xưởng và Các Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận

Là một cơ-xưởng có tiềm-năng lớn, HQCX không chịu ảnh-hưởng tức-thời của sự cắt-giảm quân-viện. Khả-năng của HQCX tiếp-tục gia-tăng nhiều-trong những năm cuối cùng của trận chiến. Hàng năm, HQCX vẫn thực-hiện được 2, 865,073 giờ sản-xuất, trong đó dành cho sửa chữa chiến-hạm 1 triệu giờ, sửa chữa bất-thường gần 1, 1 triệu giờ và đóng mới các loại tàu tuần-duyên Ciment lưới thép[370] chiếm 237 ngàn giờ.

            Kể từ năm 1973, các Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận cũng tiến-bộ, đủ khả-năng kỹ-thuật để đại-kỳ những Tuần-Duyên-Hạm PGM

 

Bảng Tổng-kết thành-tích đầu năm 1973

Từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 1 năm 1973, Hải-Quân Việt-Nam đă tạo được những thành-tích[371] như sau:

Nhân-mạng:

- 2219 Cộng-Sản Bắc-Việt bị chết

- 1277 Cộng-Sản Bắc-Việt bị bắt

- 6798 t́nh-nghi bị giữ

- 509 Hồi-chánh-viên

Vũ-khí: Ta tịch-thu được:

- 382 súng cộng-đồng

- 2851 súng cá-nhân

Số ghe tàu đánh đắm và tịch-thu:

Từ năm 1965 đến tháng 1 năm 1973, Hải-Quân Việt-Nam đă tịch-thu và đánh đắm các ghe tàu Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-nhập Hải-phận Việt-Nam Cộng-Ḥa:

            - 467 ghe xuồng-bị tịch-thu

            - 14 tàu Cộng-Sản bị đánh đắm và tịch-thu tại các địa-điểm và ngày tháng sau đây:

a. Vũng Rô ngày 19 tháng 02 năm 1965

b. Cửa Tiểu ngày 08 tháng 01 năm 1966

c. Bồ Đề ngày 10 tháng 05 năm 1966

d. Ba Động ngày 20 tháng 06 năm 1966

e. Bồ Đề ngày 01 tháng 01 năm 1967

f. Mũi Ba Làng An ngày 14 tháng 03 năm 1967

g. Sa Kỳ ngày 15 tháng 07 năm 1967

h. Đức Phổ ngày 01 tháng 03 năm 1968

i. Ḥn Hèo ngày 01 tháng 03 năm 1968

j. Cửa Việt ngày 01 tháng 03 năm 1968 (?)

k. Bồ Đề ngày 01 tháng 03 năm 1968

l. Cung Hầu ngày 22 tháng 11 năm 1970

m. Gành Hào ngày 12 tháng 04 năm 1971

n. Phú Quốc ngày 24 tháng 04 năm 1972.

 

Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-Hải.

Năm 1974, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-Hải được thành-lập.

Tổ chức lănh-thổ VNCH gồm 4 Quân-Khu. Theo lẽ thường Hải-Quân cũng cần tổ-chức ra 4 Vùng Duyên-hải. Tuy nhiên v́ nhu-cầu hành-quân đ̣i-hỏi, sau nhiều lần nghiên-cứu, Hải-quân đă quyết-định thành-lập thêm Vùng 5 Duyên-Hải. Một số trọng-điểm của Vùng này được chính vị Tư-Lệnh Vùng này nêu ra như sau:

"Năm Căn là trọng điểm của vùng đồng-bằng, rừng đước âm u, những khúc sông nguy-hiểm, là sào-huyệt dưỡng quân của Cộng-Sản, đồng-thời c̣n là vựa lúa bát ngát có thừa khả-năng nuôi sống cả Miền Nam. Như thế, ở giữa ḷng địch, dù gặp rất nhiều-áp lực, đầy cam go nguy-hiểm, nhưng sự hiện-diện của ta đă gây khó-khăn rất lớn cho địch. Địch không có lúc nào yên để dưỡng quân, sắp xếp các chiến-dịch to lớn mà không bị ta làm khó dễ. Và như ai cũng biết, hàng tháng, phải xuất từ Sóc Trăng, qua các thủy-lộ huyết-mạch và nguy-hiểm, đoàn Giang-vận vẫn đi lại điều-ḥa từ Sài-G̣n đến Sóc Trăng và ngược lạị Bao nhiêu ngàn tấn lúa, cá tôm từ đây tiếp-tế cho Sài-G̣n. Và bao nhiêu tấn phẩm-vật, nhiên-liệu từ Sài-G̣n là nguồn tiếp-tế cho các tỉnh thuộc vùng Cà Mau và phụ cậnquan-trọng lắm chứ. Không có Năm Căn làm cứ-điểm, làm sao ta giữ được sự điều-ḥa đi lại của đoàn Giang-vận. Sài-G̣n làm sao tiếp-tế được đầy đủ như vậy"[372](1).

            Bộ Tư Lệnh Vùng V Duyên Hải đóng tại Năm Căn, thuộc tỉnh An Xuyên. Trực thuộc Vùng V Duyên Hải, có các đơn vị cơ hữu sau đây:

       - Căn cứ Hải Quân Năm Căn, cũng là nơi đặt Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng V Duyên Hải.

       - Tiền Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận  Năm Căn đồn trú chung  doanh trại với  Căn Cứ  Hải Quân Năm Căn

       - Duyên Đoàn 36 đóng tại Long Phú, Tỉnh Ba Xuyên

       - Duyên Đoàn 41 đóng tại Ḥn Khoai c̣n có tên là hải đảo Giáng Tiên, tên trên hải đồ là Poulo Obi.

       - Đài Kiểm Báo 401 đặt trên núi Ḥn Khoai bên cạnh Hải Đăng  trên đỉnh núi này.

- Hải Đội V Duyên Pḥng,

- Giang Đoàn 43 ngăn chặn.

       - Giang Đoàn 65 Tuần Thám, ba đơn vị sau này đồn trú chung doanh trại Căn Cứ Hải Quân Năm Căn.

Ngoài các đơn vị cơ hữu trên, một chiến hạm thuộc Hạm Đội được tăng phái cho V5ZH để tăng cường hoạt động duyên pḥng và yểm trợ chiến đĩnh, chiến thuyền thuộc Hải Đội 5 Duyên Pḥng, Duyên Đoàn 36 và 41 trong khi hoạt động dọc duyên hải.

        Đơn vị tăng phái gồm:

- Một Tiểu Đoàn Điạ Phương Quân đóng tại Tân An, cách cưả Bồ Đề khoảng hơn 10 cây số

- Hai Trung Đội Pháo Binh 105 ly, một đóng tại BTL/V5ZH, một đóng tại Tân An  

       Vùng V Duyên Hải có nhiệm vụ giữ ǵn an ninh thủy tŕnh các sông ng̣i liên hệ trong 3 tỉnh Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên và phối hợp hành quân với các đơn vị bạn trong lănh thổ liên hệ. Về mặt duyên hải, vùng trách nhiệm cuả Vùng V Duyên Hải từ cửa sông   Định An ,mặt Đông Cà Mau, bao vùng xuống Ḥn Khoai và ngược lên phía Tây Cà Mau, tới Ḥn Đá Bạc.

 

Hoàn-thiện Tổ-Chức

            Sau nhiều năm liên-tục bành-trướng, quân-số Hải-Quân đă lên đến mức tối-đa quy-định bởi cấp-số vào cuối năm 1972. Năm 1973, HQVN không lấy thêm Hạ-Sĩ-Quan hay Đoàn-Viên mà chỉ tuyển-mộ Sinh-Viên Sĩ-Quan mà thôi.[373]

            Năm 1974 được Hải-Quân VNCH mệnh-danh là năm "Hoàn-hảo Tổ-Chức" và "Ưu-Tú Nhân-Sự" v́ những hoạt-động sau:

- Hoàn-hảo Tổ-Chức. Trong chiều-hướng chung của Quân-Lực, Hải-Quân đă nghiên-cứu và hoàn-tất việc thi-hành như sau:

. tân-lập 4 đơn-vị.

. cải-danh và cải-tổ 10 đơn-vị.

. giải-tán và di-chuyển 8 đơn-vị.

. minh-định nhiệm-vụ và tái tổ-chức 5 đơn-vị.

            Tính từ cuối năm 1973 đến tháng 10-1974, các công-việc quan-trọng nhất về Tổ-chức gồm có:

. Thành-lập Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-Hải.

. Giải-tán Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-Pḥng.

. Sáp-nhập các Hải-Đội Duyên-Pḥng vào các Vùng Duyên-Hải.

. Tháng 3 năm 1974, các Lực-Lượng Đặc-Nhiệm tại Vùng 4 Sông Ng̣i được gom thành Hạm Đội Đặc-Nhiệm 21. Tư-Lệnh V4SN kiêm-nhiệm chức-vụ TL/HĐĐN 21 yểm-trợ cho QĐ IV. Sau khi HĐĐN 21 thành h́nh, BTL/ Hành-Quân Sông được di-chuyển về Sài-G̣n.[374]

- Ưu-Tú Nhân-Sự: Một số quân-nhân có tinh-thần phục-vụ và kỷ-luật kém bị sa-thải khỏi quân-chủng.[375]

 

T́nh-h́nh tiếp-vận thiếu-hụt trầm trọng

James F. Dunnigan and Albert A. Nofi.[376] đă ghi lại nhận-xét rất đúng đắn: Hoa-Kỳ không có kế-hoạch hữu-hiẹu. Khi ồ ạt đưa Cố-Vấn vào, rồi lại mang cả Quân-lực Hoa-Kỳ tham-chiến, người Mỹ đă làm suy-giảm hiệu-năng của Quân-lực Việt-Nam Cộng-Ḥa. Tai-hại đó thật rơ-rệt khi Hoa-kỳ rút ra và đột ngột giảm-thiểu quỹ viện-trợ vào những năm 1974-1975. Trong khi Việt-Nam Cộng-Ḥa thiếu-hụt tiếp-vận trầm trọng th́ Cộng-SảnBắc-Việt lại nhận được viện-trợ gia-tăng khoảng 3, 4 lần hơn nữa từ phiá Nga-Sô và Trung-Cộng.[377]

Về Hải-Quân, vào lúc cao-điểm hoạt-động, HQVN có quân-số 42,000 quân-nhân, không kể dân-chính. Với 672 Chiến-đĩnh đổ-bộ, 20 Trục-Lôi-Đĩnh, 450 Chiến-đĩnh tuần-tiễu, 56 Chiến-đĩnh tiếp-vận và 242 Hải-Thuyền; HQVN hoạt-động rất hữu-hiệu. Văn-pḥng Tùy-Viên Quân-sự Mỹ DAO (Defense Attaché Office) ghi-nhận t́nh-trạng an-ninh tại những vùng Hải-Quân trách-nhiệm khá tốt đẹp, Cộng-Sản không đạt được một mục-tiêu đáng kể nào trong suốt hai năm 1973 và 1974. Ngay cả đầu năm 1975, an-ninh khắp Vùng 4 đươc kể là yên-tĩnh.

Quân-viện hàng năm cho Việt-Nam Cộng-Ḥa từ nhiều-tỷ Mỹ-kim bị hạ-giảm xuống c̣n 700 triệu Mỹ-kim. HQVN đành cắt đi bớt nhịp điệu hành-quân xuống 50 phần trăm. Hoạt-động trong sông thật là cần-thiết, cũng bị xén xuống 70 phần trăm. Đạn-dược và nhiên-liệu thiếu-hụt trầm-trọng. HQVN chỉ c̣n cách là cho 600 giang-đĩnh và tuần-cảng-đĩnh nghỉ bến bất-động. 22 chiến-hạm hạm-đội cũng không c̣n chạy được.[378]

Lực-Lượng Thủy-Bộ, một thành-phần tác-chiến quan-trọng của HQVN, cũng gặp cảnh thiếu cơ-phận. T́nh-trạng "đ́nh động" v́ sự giảm-sút tiếp-vận đă được chính Vị Cựu Tư-Lệnh Lực-lượng đó mô-tả như sau: "Khi tôi nhận đơn-vị Đặc-Nhiệm Thủy-Bộ từ Đô Đốc Hoàng-Cơ-Minh tháng 9 năm 1974, đă có một phần ba chiến-đĩnh trong t́nh-trạng "đ́nh động" v́ thiếu cơ-phận thay thế. Phần c̣n lại th́ bị xé lẻ thành từng đơn-vị Giang-Đoàn Thủy-Bộ tăng-phái xuống cấp Tiểu-Khu Lực-Lượng Thủy-Bộ không c̣n tham-gia những cuộc hành-quân quy-củ như trước. Tại các Tiểu-Khu, Giang-Đoàn Thủy-Bộ được ưa chuộng nhờ giáp dày, hỏa-lực mạnh. Cho nên phiếu tŕnh đề-nghị tái-lập lại Lực-Lượng Thủy-Bộ như trước vẫn c̣n nằm đâu đó trên những pḥng sở thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH".

 

Thành-Quả Năm 1972 của Hải-Quân Việt-Nam

Trong năm 1972, nhiều biến-chuyển xảy ra và Hải_quân VNCH đă đạt được nhiểu thành-quà tốt đẹp. Sau đây là phần trích từ Đặc-San Lướt Sóng[379] phát-hành ngày Hải-Quân 1974.

Tổ-Chức:

Trong chiều-hướng "hoàn-hảo tổ-chức", suốt năm qua, Hải-Quân Việt-Nam tân-lập được 4 đơn-vị, cải-danh và cải-tổ 10 đơn-vị, giải-tán và di-chuyển 8 đơn-vị, minh-định lại nhiệm-vụ và tổ-chức của 5 đơn-vị.

Đặc-biệt, cải-tổ quan-trọng nhất là việc giải-tán Lực-Lượng Duyên-Pḥng, sáp-nhập các Hải-Đội Duyên-Pḥng vào các Vùng Duyên-Hải và việc thành-lập Bộ Tư-Lệnh Vùng 5 Duyên-Hải.

Về quân-số thực-hiện, th́ năm 1972 đă quá cao so với quân-số quy-định, do đó để quân-b́nh quân-số, năm 1973, Hải-Quân chỉ tuyển-mộ Sinh-Viên Sĩ-Quan mà thôi.

Ngoài ra, để đạt mục-tiêu" Ưu-Tú Nhân-Sự" trong năm qua, một số quân-nhân có tinh-thần phục-vụ và kỷ luật kém đă bị sa-thải khỏi quân-chủng.

Huấn-Luyện:

Nói chung, trong năm qua, chương-tŕnh huấn-luyện của Hải-Quân vẫn được tiến-hành một cách tốt đẹp, đúng theo lịch-tŕnh ấn-định, đặc-biệt chú-trọng vào mục-tiêu "Bồi-Dưỡng Chuyên-Nghiệp" và " Tinh-Tiến Chuyên-Môn".

Trong tất cả nỗ-lực nhằm đào-tạo Sĩ-Quan thành cấp chỉ-huy đa năng đa hiệu, cũng như bồi-dưỡng Hạ-Sĩ-Quan thành những cán-bộ chuyên-nghiệp và huấn-luyện Đoàn-viên thành những Thủy-Thủ lành nghề, kể từ Ngày Hải-Quân 73 đến nay, khối Quân-Huấn Hải-Quân đă thực-hiện các khóa huấn-luyện sau đây:

-30 Khóa dành cho Sĩ-Quan, gồm các Khóa: Cao cấp chuyên-môn, Trung-cấp chuyên-môn, Sinh Viên Sĩ-Quan, Đặc-biệt Sĩ-Quan Hải-Quân, Sĩ-Quan Tiếp Liệu Bổ Túc, Sĩ-Quan Huấn-Luyện-Viên, Sĩ-Quan Trực Trung-Tâm Chiến-Báo.

-51 Khóa dành cho Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên gồm các Khóa Cao-Đẳng, Trung-Đẳng, Sơ-Đẳng Chuyên-Nghiệp, Khóa Tân-Binh Hải-Quân.

-23 Khóa huấn-luyện tại các quân-trường liên quân gồm các khóa ngắn hạn như An-Ninh, Chiến-Tranh Chính-Trị..vv..

Ngoài ra tại các quân-trường Hải-Ngoại có các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Hải-Quân đang thụ-huấn các Khóa chuyên-môn khác.

Song song với chương-tŕnh huấn-luyện đặt ra, dù với ngân-khoản eo hẹp và phương-tiện quá thiếu-thốn, pḥng Binh-Thư thuộc Khối Quân-Huấn đă ấn-hành một số sách giáo-khoa đáng kể, đồng-thời pḥng Trợ-Huấn cũng không ngừng trong việc xúc-tiến thiết-lập các mô-h́nh và dụng-cụ huấn-luyện để yểm-trợ tối-đa cho các quân-trường.

Hoạt-Động An-Ninh

Hoạt-động an-ninh Hải-Quân trong năm qua nổi bật trong 3 hoạt-động chính-yếu là an-ninh phối-hợp kiểm soát phong tỏa duyên-hải và duy trí ưu-thế trên sông biển hầu bảo-vệ an-ninh quốc-pḥng và quyền-lợi kinh-tế quốc-gia. Đặc-biệt nhất là trận hải-chiến bảo-vệ chủ-quyền quốc-gia tại quần-đảo Hoàng-Sa ngày 19-01-74 giữa Hải-Quân Việt-Nam anh hùng và Hải-Quân Trung-Cộng xâm-lăng.

Về hoạt-động an-ninh Hải-Quân, nhằm chặn đứng mọi mưu-đồ lấn đất dành dân, vi-phạm trắng-trợn Hiệp định ngưng bắn của quân Cộng Sản Bắc Việt, Hải-Quân Việt-Nam, trong thời-gian qua, đă mở được 1,028 cuộc hoạt-động an-ninh biệt lập, chận xét 375,250 ghe thuyền và 1,053,604 người, bắt giữ 140 ghe và 276 người. Đồng-thời, trong các phản ứng tự-vệ đối với 474 vụ vi-phạm ngưng bắn của Cộng-Sản Bắc Việt từ tháng 9-73 đến nay, con số tổn-thất về nhân-mạng cùng vũ-khí quân-dụng của địch bị ta tịch-thu và phá-hủy đă nói lên được hoạt-động hữu-hiệu của HQVN.

Về phương-diện kiểm-soát lănh-hải và bảo-vệ quyền-lợi kinh-tế quốc-gia, HQVN trong năm qua, đă đạt được các thành-tích đặc-biệt như bắt giữ 12 ghe thuyền Thái Lan gồm 200 ngư-phủ vi-phạm lănh-hải đánh cá của Việt-Nam Cộng-Ḥa. Gần đây nhứt là việc Khu-Trục-Hạm Trần Khánh Dư HQ. 4, ngày 26-6-74 đă lập được thành-tích chận bắt được chiếc tàu Luaang Lapsri số 093[380]393 tại 48 hải lư Nam Côn Sơn và tịch-thu được 2.005 kg thuốc phiện đen đựng trong 55 bao lớn và 2 bao nhỏ.

Ngoài ra, hiện nay công-tác yểm-trợ các công-ty khai thác các mỏ dầu hỏa tại thềm lục-địa VNCH đă nói lên được tính đặc-thù và hữu-hiệu của quân-chủng Hải-Quân..Nhưng nổi bật nhất, phải nói là cuộc chiến hào-hùng của HQVN tại quần-đảo Hoàng-Sa vào những ngày cuối đông 73 nhằn chống lại cuộc xâm-lăng của Hải-Quân Trung Cộng. kết-quả, Hải-Quân Trung Cộng đă bị tổn-thất nặng nề với 2 chiến-hạm loại Kronstad bị HQVN bắn ch́m, trong khi 2 chiến-hạm khác bị hư-hại và hàng trăm binh-sĩ thương-vong.

Mặt khác, trong năm qua, HQVN đă tổ-chức được 28 chuyến hộ-tống convoi trên thủy-tŕnh huyết-mạch, đồng-thời chuyển-vận 164,319 người và 1.237 tấn đạn-dược, quân-dụng.

Yểm-Trợ Tiếp-Vận:

Với chiều-hướng phát-triển tự-túc, yểm-trợ cho các đơn-vị, ngành Tiếp-Vận Hải-Quân đă cải-tiến không ngừng và thâu-đạt được nhiều-thành-tích khích-lệ...

Mặc dù ngân-khoản eo hẹp, ngành Tiếp-Vận Hải-Quân cũng đă cố-gắng đóng thêm cá Duyên-Kích-Đĩnh xi măng và đă hoàn-tất chiếc thứ 87... Đồng-thời, trong nỗ-lực cải-tiến kỹ-thuật hầu gia-tăng hoạt-động cho các chiến-sĩ và chiến-đĩnh, Tiếp-Vận Hải-Quân đă hoàn-tất thiết-trí nhiều-loại đại bác pḥng không trên các Khu-Trục-Hạm và Tuần-Dương-Hạm, tăng cường hỏa-lực cho nhiều-giang đĩnh, biến cải hệ thống đẩy tàu cho một số Giang-Pháo-Hạm và Trợ-Chiến-Hạm.

Song song với việc tiếp-vận nặng-nề tính-cách quân-sự nêu trên, Hải-Quân c̣n giúp đỡ các gia-đ́nh binh-sĩ bằnh cách xúc tiến mạnh mẽ công-tác xây cất các trại gia-binh tại các đơn-vị Hải-Quân. Với sự yểm-trợ của Tổng Cục Tiếp-Vận và Hoa-Kỳ, trong năm qua, Hải-Quân đă xây cất được 50 căn nhà tại CCYT-TV Cát Lở và 120 căn nhà tại Duyên-Đoàn 43, 44 cùng một số đơn-vị tại B́nh-Thủy...Ngoài ra trong tân Công-tác do Tổng-Cục Yểm-Trợ Tiếp-Vận yểm-trợ, Hải-Quân đă thực-hiện được 2 dự-án khác. Phần do Hoa-Kỳ yểm-trợ gồm có các thỏa-hiệp về 44 dự-án tân công-tác, 7 dự án vét bùn và 6 dự án cải-tiến hệ-thống nước tại 6 Đài Kiểm-Báo.

Hoạt-động Quân-Y

Thể-xác có tráng-kiện, tinh-thần mới được minh-mẫn và hiệu-năng công-việc của các chiến-sĩ Hải-Quân mới dồi-dào. Do đó ngành Quân-Y Hải-Quân đă được đặt ra để thi-hành các công-tác trong phạm-vi y-tế.

Trong năm qua, các y-sĩ đă khám ngọai-chẩn cho 28.253 quân-nhân và gia-đ́nh, thử-nghiệm 74.428 người, chụp điện-tuyến 40.541 người, trám nhổ răng 30.412 người và điều-trị tại bệnh-viện, bệnh-xá 14.848 người.

Về dược-phẩm, Kho Y Dược Trung-Ương Hải-Quân yểm-trợ cho các đơn-vị Quân-Y Hải-Quân trung-b́nh khoảng 85% so với nhu-cầu. Tuy nhiên nhờ những kế-hoạch cải-tiến và tiết-kiệm dược-phẩm do Cục Quân-Y phát-động và nhờ những phương-thức mà Khối Quân-Y đề ra nên cũng tạm đủ dùng cho việc điều-trị. Ngoài ra Hoa-Kỳ c̣n yểm-trợ trong việc huấn-luyện chuyên-khoa tại Hoa-Kỳ. Đặc-biệt nhất của ngành Quân-Y Hải-Quân là 2 Y-Tế-Hạm Hát Giang (HQ. 400) và Hàn Giang (HQ. 401) được dân-chúng cả nước biết đến và xưng-tụng là " Chiến-Hạm T́nh Thương". Hoạt-động Quân-Y Dân-Sự-Vụ của hai Y-Tế-Hạm này rải đều khắp các Vùng Duyên-Hải và Sông Ng̣i, đến tận các hải-đảo xa xôi, đem sức khỏe và an vui đến cho đồng-bào.

Chiến-Tranh Chính-Trị:

Hoạt-động Chiến-tranh Chính-trị bao gồm trên 4 lănh-vực Tâm-Lư-Chiến, Chính-Huấn, Xă-Hội và Tuyên-Úy nhằm vào 3 đối tượng Dân -Binh -Địch quá rộng lớn và phức-tạp cho nên hoạt-động Chiến-Tranh Chính-Trị ngày càng trở nên cần-thiết trong nhiệm-vụ nâng cao tinh-thần quân-sĩ Hải-Quân các cấp để chống Cộng cứu-quốc, đồng-thời giữ vững lập-trường quốc-gia vững-chắc..

Trong nỗ-lực thực-thi các chiến-dịch, chương-tŕnh, kế-hoạch thuộc lănh-vực Tâm-Lư-Chiến, ngành Chiến-Tranh Chính-Trị Hải-Quân đă gặt hái được nhiều-thành-tích khả-quan. Riêng kết-quả Chiến-Dịch V́ Dân, trong năm qua, Hải-Quân đă điều-trị được 239 quân-nhân nghiện ma-túy, bắt giữ 348 quân-nhân can tội buôn lậu, vi-phạm tệ-đoan xă-hội, đồng-thời tịch-thu 923 thùng và 1.398 cây thuốc lá đủ loại... Về kết-quả của Chiến-Dịch T́m Về Tự-Do, với công-tác chiêu-hồi cán-binh CSBV trở về với chánh-nghĩa quốc-gia, trong thời-gian qua, Hải-Quân kêu gọi được 6 cán-binh CS về hồi-chánh mang theo nhiều-vũ-khí đạn-dược... Hoạt-động Dân-Vụ năm qua được ghi-nhận khả-quan với 83.786 đồng-bào được phát thuốc, khám bệnh, phân-phát 430 phần quà và 35 thùng quần áo, đồng-thời phân-phối 154.000 truyền-đơn và 562 sách báo đủ loại.

Mặt khác, ngành CTCT Hải-Quân cũng đă thực-hiện trong năm qua 3 cuốn phim: "Ngày Hải-Quân 73", "HQVN Ngày Nay" và "43 Quân Công Từ Ngục Tù Trung-Cộng Trở Về", Mỗi cuốn phim dài 1,200 feet. Về hoạt-động thể-thao, được ghi-nhận là rất khả-quan với 15 lần đoạt giải trong các bộ-môn bóng tṛn, bóng rổ, bóng chuyền, vũ-cầu, quyền-thuật, thái-cực-đạo và xe đạp.

Ngoài ra, trong nhiệm-vụ cải-tạo và ổn-định nếp sống gia-đ́nh binh-sĩ, ủy-lạo các Thương Bệnh Binh, giáo-dục con em quân-nhân, trong năm qua, cán-bộ CTCT Hải-Quân đă thăm-viếng ủy-lạo 1,058 lần, trợ-cấp 19,863,922$ cho 2,076 người; đồng-thời lập Kư-Nhi-Viện Cửu-Long, yểm-trợ học-phẩm, học-cụ cho 23 trường Ấu, Sơ, Tiểu-Học Hải-Quân gồm 3,474 học-sinh.

Về hoạt-động giáo-vụ cũng đáng khích-lệ với nghi-lễ cầu-an, cầu-siêu, mai-táng, giảng-thuyết..v..v..

Sau cùng là hoạt-động của Biệt-đội Chiến-Tranh Chính-Trị trong năm qua đă thực-hiện 491 chuyến công-tác, tập-trung 190,557 đồng-bào tham-dự trong 70 buổi Sinh-Hoạt Lănh-Đạo Chỉ-Huy.

Nh́n lại thành-tích trong một năm qua, phải nhận rằng đó là một khích-lệ lớn lao cho quân-chủng, ghi dấu một giai-đoạn trưởng-thành của quân-chủng Hải-Quân trên mọi lănh-vực. Trong tương lai, khi ḥa b́nh văn hồi, HQVN ngoài việc xây-dựng củng-cố lực-lượng ngày thêm hùng-mạnh, sẽ c̣n lănh trọng-trách phát-triển kinh-tế bằng cách khai-thác hải hoặc khoáng-sản dọc theo duyên-hải, góp phần xây-dựng quốc-gia phú-cường theo kịp các quốc-gia tân-tiến trên thế-giới.

 

Quần-đảo Trường-Sa và Hài-Quân VNCH

Vào tháng 6 năm 1956, HQVNCH đă chỉ-thị Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ. 04 tuần-tiễu vùng biển Trường-Sa.

Từ năm 1960 đến năm 1967, Hải Quân VNCH phái nhiều chiến hạm thường xuyên tuần tiễu cũng như hoàn tất đặt bia chủ quyền trên nhiều đảo (Song Tử Đông, Song Tử Tây...) trong Quần Đảo Trường Sa. Đến tháng 7-1973, VNCH kư giấy phép cho các công ty ngoại quốc thăm ḍ và khai thác dầu hỏa gần vùng Trường Sa. Chính v́ sự kiện trên, Trung Cộng bắt đầu phản đối và tranh giành chủ-quyền với những luận điệu hoàn toàn vô căn cứ. Dương-Vận-Hạm Qui-Nhơn HQ.504 là chiến-hạm công-tác thường-xuyên nhất tại Vùng Trường-Sa. Chiến-hạm đă chuyên-chở dụng-cụ và vật-liệu cho việc xây cất; đồng-thời yểm-trợ các đơn-vị bạn hoàn-tất công-sự pḥng-thủ trên các đảo Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang. Chiến-hạm cũng gửi tiểu-đĩnh thám-sát c đảo phụ-cận. Đặc-biệt Đại-diện HQVN gây được sự ḥa nhă, tôn-trọng lẫn nhau với cả Lực-Lượng Trung-Hoa Dân-Quốc trấn-đóng trên đảo Thái-B́nh.

 

Dương-Vận-Hạm Qui-Nhơn HQ.504.

 

Tháng 12 năm 1973, Tiểu Khu Phước Tuy biệt phái một đơn vị Địa Phương Quân ra Quần Đảo Trường Sa, đồn trú trên các đảo Trường Sa và Nam Yết. Các đơn vị Địa Phương Quân này thường xuyên được những Chiến Hạm Hải Quân yểm trợ và tiếp tế.

Vào tháng 1 năm 1974, Trung Cộng cưỡng chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của VNCH sau một trận hải chiến dữ dội. Để đề pḥng quân Trung Cộng tiến xa hơn về hướng Trường Sa. VNCH tăng cường thêm nhiều Chiến Hạm tuần tiễu cũng như quân trú pḥng tại các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, An Bang và các đảo lớn phụ cận.

           


 

H́nh-ảnh ghi nhân của Phóng-Viên Nguyễn-Kim về các đảo chính tại Trường-Sa sau khi các công-sự pḥng-thủ.đă được xây cất

 

 


 

Chương 6

 

Năm 1975, những lần Triệt-thoái.

 

Biến-chuyển bất-thường

            Sau gần hai năm 1973-1974 Việt-Nam Cộng-Ḥa tương-đối tạm ổn-định, t́nh-h́nh Miền Cao-Nguyên và Duyên-Hải Trung-phần đă đột-ngột biến-đổi mau lẹ vào đầu năm 1975. Sau hai lần đại-bại vào Tết Mậu-Thân 1968 và Tổng Tấn-công Vượt Vĩ-Tuyến 17 năm 1972, Cộng-Sản Bắc-Việt lại quyết-định một mở một cuộc tấn-công nữa với toàn-lực quân-đội chính-quy của chúng.

Ngày 10 tháng 3 năm 1975 Ban Mê Thuột bị thất-thủ, rất ít quân trú-pḥng QLVNCH trốn về được duyên-hải. Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu ra lệnh triệt-thoái luôn các tỉnh chiến-lược của cao-nguyên là Pleiku và Kontum. Ngày 15-3, quân-đội cao-nguyên rút lui về Tuy-Ḥa. V́ thiếu kế-hoạch và cũng v́ phải vướng chân khi kéo theo hàng chục ngàn dân di-tản trốn chạy Cộng-Sản, Quân-Đoàn 2 đă bị thiệt-hại lớn.

Trong khi ảnh-hưởng tâm-lư gây náo-loạn khắp nơi, th́ lệnh điều-động từ Sài-G̣n ban-hành lại bất-nhất, hệ-thống pḥng-thủ của Quân-Đoàn 1 bắt đầu bị rạn nứt.

 

Công-tác di-tản

Ngày 24 tháng 3, Quân-Đoàn I dự-tính rút Sư-Đoàn 2 ra ngoài đảo Cù-lao Ré.

Ngày 25 tháng 3, quân-đội bỏ Cố-đô Huế một cách vô tổ-chức rút về phía Đà-Nẵng, kéo theo hàng trăm ngàn người tị-nạn. Trong cảnh hỗn-loạn tại Vùng 1 Chiến-thuật lúc đó, Hải-Quân đă thành-lập Phân-đội Bắc, mạo-hiểm đưa các chiến-hạm, chiến-đĩnh đổ-bộ vào di-tản nhiều-ngàn quân-nhân chạy ra Cửa Thuận-An.[381] 

            Chiều ngày 26 tháng 3, Phân-Đoàn Nam gồm có HQ. 802, HQ. 505, HQ. 404, Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm Chu-Lai, một số Giang-Vận-Hạm tăng-phái; được giao nhiệm-vụ vào Chu-Lai đón Sư-Đoàn 2 ra Đảo Lư-Sơn (Cù-Lao Ré. Chiều-ngày 27 tháng 3, một số quân-nhân Sư-Đoàn 2 gây áp-lực đ̣i HQ. 404 đưa họ vễ Đà-Nẵng.

Rồi đến lượt Đà-Nẵng, v́ số lượng quá lớn số quân và dân tị-nạn kéo về, nên cũng lọt ra ngoài ṿng kiểm-soát của Quân-Đoàn 1. Trong việc di-tản, BTTM/QLVNCH dự-trù chuyển-vận chính-quyền, quân-đội và một số thường-dân tị-nạn về Cam-Ranh. Các chiến-hạm tận-dụng mọi phương-tiện khả-hữu để cứu vớt quân-nhân và thường-dân. Các giới-chức Quân-đội quên ḿnh lo cho công-vụ đến độ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 1 Duyên-Hải cùng Trung-Tướng TL/QĐ1/V1CT suưt nữa bị kẹt lại tại Tiên-Sa.

 

 

 

Tuần-Dương-Hạm di-tản Quân-nhân Vùng 1 Chiến-thuật

 

Các thương-thuyền và cuộc di-tản

            Các thương-thuyền, tàu kéo và các Xà-lan thuộc Bộ Chỉ-Huy Hải-Vận Hoa-kỳ Military Sealift Command[382] (MSC) cũng tham-gia trong cuộc di-tản miền Trung.

            Ngày 24 tháng 3, co 6 xà-lan do các tàu kéo sau đây được mang từ Vũng Tàu ra Đà-Nẵng:

- Asiatic Stamina

- Chitose Maru

- Osceola

- Pawnee

- Shibaura Maru

Ngày 25 tháng 3, cơ-quan MSC đặt các thương-thuyền sau đây trong t́nh-trạng sẵn-sàng thi-hành kế-hoạch di-tản tại Miền Trung của Việt-Nam Cộng-Ḥa:

- SS American Racer

- SS Green Forest

- SS Green Port

- SS Green Wave

- SS Pioneer Commander

- SS Pioneer Contender

- SS Transcolorado

- USNS Greenville Victory

- USNS Sgt Andrew Miller

- USNS Sgt. Truman Kimbro

Những thương-thuyền này có sức chuyển-vận rất lớn, ngay sau đó đă giúp sức rất nhiều-trong công-tác đưa người và vật-dụng từ Miền Trung xuôi Nam.

 

Những người Bỏ phiếu cho Tự-Do bằng Chân

Trong cuộc chiến đă có gần triệu dân Bắc di-cư bỏ Cộng-Sản năm 1954-1955, chạy vào Nam t́m tự-do. Những người dân Việt-nam hiền-ḥa vô-tội khắp nơi chạy theo Quốc-gia rất nhiều. Kể từ 1954 đến 1975 có tới 5 triệu người tị-nạn Cộng-Sản, đă được gọi chung là những “Người Bỏ Phiếu Bằng Chân". Tuy vậy trong lần di-tản Vùng 1 này, chỉ với một thời-gian ngắn ngủi năm ba ngày, một số lượng lớn lao đến hàng trăm ngàn người, bỏ nhà cửa ruộng vườn, mồ mả tổ-tiên trốn chạy Cộng-Sản. Trong cơn hoảng-hốt sợ hăi, lần đầu tiên “Người Bỏ Phiếu Bằng Chân" của miền Trung đă chạy nhanh" đến như vậy. Đà-Nẵng có dân-cư b́nh-thường là 600,000 người, đột-nhiên tăng vọt lên 2,000,000...[383]

            V́ dân tị-nạn tràn vào, t́nh-trạng Đà-Nẵng trở nên hỗn loạn, ngoài ṿng kiểm-soát của chính-quyền. Số phận của những người tị-nạn lần này bi-đát hơn những đợt di-cư lần trước. Trong tổng-số 2 triệu thường-dân trốn chạy Cộng-Sản, chỉ có khoảng 50,000 người may mắn lên được tàu ra khỏi Đà-Nẵng.

 

Những ngày chót của Công-tác Triệt-thoái Vùng 1 Chiến-thuật.

            Theo nhà Khảo-cứu Pham-Kim-Vinh: Khi tướng Trưởng vẫn c̣n nắm rất vững sự chỉ-huy các đơn-vị quân-sự th́ Ông đă phải chịu thua đám thường-dân chạy giặc Cộng-Sản [384]

            Ngày 28 tháng 3, có tin cho biết Việt-Cộng đă chiếm của biển Hội-An.

            Rạng sáng ngày 29 tháng 3, tướng Trưởng đặt bản-doanh tại Căn-cứ Hải-Quân ở Tiên-Sa. Ông ra lệnh cho Sư-Đoàn 3 lập đầu cầu ở phía Bắc Hội-An để tàu Hải-Quân đến đón binh-sĩ.

            Trong khi các phi-trường bị tê-liệt v́ bị địch-quân pháo-kích tấn-công, Hải-Quân trở thành phương-tiện độc-nhất để ra vào Vùng 1 Chiến-thuật. Có 6.000 binh-sĩ TQLC được tàu chuyên-chở. Sư-Đoàn 3 không được may mắn bằng Sư-Đoàn TQLC. Sau khi 1,000 binh-sĩ lên chiến-hạm di-tản th́ đến đợt thứ nh́ cách đó 6 tiếng, binh-sĩ Sư-Đoàn 3 đă mất kiên-nhẫn, bắn vào chiến-hạm. Công-tác triệt-thoái Sư-Đoàn 3 theo Sử-gia Phạm Kim Vinh, chỉ v́ các "phản-ứng" đó mà Hải-Quân đành phải ngừng lại.

            Trong một bài viết được ghi là của Trung-Tướng Ngô-Quang-Trưởng phổ-biến tại Hoa-Kỳ trong thập-niên 1990, tác-giả đă viết về những biến-cố trên. Khá rơ. Chúng tôi xin trích-dẫn lại một vài đoạn như sau:

... Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư-Đoàn Dù và Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến về giữ Nha Trang.

... Ngày 24 bỏ Tam-Kỳ Quảng-Ngăi, Hải-Quân đưa Sư-Đoàn 2 từ Chu-Lai ra Cù Lao Ré.

... Ngày 25 bỏ Huế.

            ... Ngày 29 tháng 3, Cộng-Quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao-tranh nhỏ. Tôi được chiến-hạm HQ. 404 đưa về Sài-G̣n. Trên tàu cũng có một Lữ-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên-lạc yêu-cầu tôi ra tái chiếm lại Đà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đă phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ-huy th́ mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Đà Nẵng) được?

Sau đó tôi được lệnh cho Hạm-Trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy-Quân Lục-Chiến xuống, rồi chỉ chở một ḿnh tôi về Sài-G̣n. Tôi không chịu, mặc dù lúc đó tàu đă cặp bến Cam Ranh rồi…[385]

            Báo-cáo của cơ-quan MSC cho biết ngày 30-3, thương-thuyền American Challenger là chiếc tầu chót dời Đà-Nẵng. Theo Giáo-Sư Phạm-Kim-Vinh, Cộng-Quân thấy chúng không cần tiến ngay vào Đà-Nẵng. Cũng có thể Cộng-Quân không dám ngăn-cản sự tiếp-cứu số người Mỹ tại Đà-Nẵng. Phải chăng Cộng-Quân sợ người Mỹ chờ một điều-ǵ đó để có lư-do can-thiệp trở lại? Người ta chỉ biết rằng chúng đă dừng lại ở ngoại-ô Đà-Nẵng, để mặc cho tàu thuyền các quốc-gia Nhật, Trung-Hoa, Mỹ và cả VNCH đón vớt hàng ngàn người trốn chạy ra khơi.[386]

 

Hải-Quân Triệt-Thoái tại Vùng 2 Chiến-thuật.

            Vùng 1 đă mất. Sư suy-sụp lan tràn rất nhanh chóng đến duyên-hải Vùng 2 Chiến-thuật.

Ngày 31-3, Quy-Nhơn bị mất.

Ngày 2-4, Nha-Trang mất theo.

            Chương-tŕnh di-tản Vùng 1 Chiến-thuật vào Cam-Ranh bị thay đổi v́ toán chót đang đến nơi th́ ngay Cam-Ranh cũng lại gặp bất ổn. Từ ngày 1-4 đến ngày 4-4, số người vừa đổ xuống Cam-Ranh lại được bốc lên để chuyển-tiếp đi Phú-Quốc. Một số lượng không lớn lắm được phép đổ-bộ xuống Vũng-Tàu.

            Ngày 10 tháng 4, tất cả các chiến-hạm và thương-thuyền hoàn-tất công-tác đổ-bộ người xuống Phú-Quốc.

Coi như công-tác trợ-giúp Việt-Nam Cộng-Ḥa di-tản đă hoàn-tất, vào ngày 14 tháng 4, Chính-phủ Hoa-Kỳ ra lệnh cho tất cả các Chiến-hạm của họ dời xa hải-phận Việt-Nam.

 

Hải-Quân Kỷ-luật, không Hỗn-loạn khi Di-tản

            Cuộc di-tản Miền Trung vào Miền Nam thực-hiện được là nhờ những phương-tiện đường biển.

Theo giáo-sư Sử-Địa Nguyễn-Khắc-Ngữ, chính nhờ vào những nỗ-lực của Hải-Quân trong giai-đoạn cuối cùng của cuộc chiến mà Việt-Nam Cộng-Ḥa kéo dài sự tồn-tại tới 30 tháng 4 năm 1975.[387]

Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975 Hạm-Đội có thay-đổi nhân-sự. Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ-định Hải-Quân Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê thay thế Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn ở chức-vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Khi đó Đại-Tá Khuê đang làm Tham-Mưu-Trưởng BTL/ Hành-Quân Biển. Lư-do của sự thay đổi là để Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội có thể phối-hợp chặt chẽ hơn với BTL/ Hành-Quân Biển, hầu thi-hành kế-hoạch hành-quân di-tản một cách nhanh chóng và hữu-hiệu

 

Lui Binh Chiến-Lược và Di-tản.

Đoạn văn dưới đây được trích từ một bài phỏng-vấn Cựu Phó Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang được thực-hiện bời Nhà Văn Phan-Lạc-Tiếp.

Cuối tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Thiệu từ chức, giao quyền cho Phó Tổng Thống Trần-Văn-Hương. Dưới nhiều-áp-lực, Tổng Thống Chỉ-định Trần-Văn-Hương phải nhường quyền-hành lại cho Đại Tướng Dương-Văn-Minh. Người ta hy-vọng có một giải-pháp ôn-ḥa trước sự tiến quân ồ ạt của Cộng-quân.

Giữa lúc khó-khăn ấy, Phó Đô Đốc Chung-Tấn-Cang, sau nhiều-năm biệt-phái đảm-nhiệm các trách-vụ ngoài Hải-Quân, đă trở lại Hải-Quân. Quanh Sài-G̣n Cộng-quân đă có mặt.

“Thủy-tŕnh huyết mạch, hơi thở của Sài-G̣n trong bao lâu là con sông Ḷng Tào và Soài Rạp phải được giữ vững. Và đó c̣n là con đường cuối cùng của đoàn tàu của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa dời Sài-G̣n trước khi quá muộn. Ra đi nghiêm-túc và an-toàn. Đó là một cuộc lui binh đẹp đẽ, đầy kỷ-luật.”

 Trên đây là nhận-xét của Phó Đô Đốc Cang, Ông nói thêm; "Như tất cả mọi người đều biết, sức mạnh của Hải-Quân là sức mạnh tập-thể. Soạn-thảo kế-hoạch là ông Chí (Phó Đề-Đốc Nguyễn-Hữu-Chí), Tư-Lệnh Hành-Quân Biển, ông Sơn (Nguyễn Xuân Sơn, Đại-Tá Cựu Tư-Lệnh Hạm-Đội) ông Kiểm (Đại-Tá Đỗ Kiểm, Đại-Tá Tham-Mưu-Phó Hành-Quân) ông Luân (Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng Tiếp-Vận) và ông Khuê (Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê, Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân Biển). Đó là lúc sửa soạn.

Đâu như hôm 26/4/75, tôi có họp Bộ Tham-Mưu nói đến ư-định là phải ra khỏi Sài-G̣n. Mà đi là cùng đi tất cả. Ra khỏi Sài-g̣n, giữ lấy toàn-thể lực-lượng rồi sẽ tính sau. Sự ra đi của đoàn tàu có tính-cách chiến-lược.

Người giúp tôi nhiều-nhất, đắc-lực nhất, ngày đêm lo cho đoàn tàu là ông Hùng (Phó Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng).”

“Khi đoàn tàu dời khỏi Sài-G̣n, đă ở ngoài biển, mà Tổng Thống Dương-Văn-Minh không đầu hàng th́ sao !" Ông Cang đáp: "Th́ ít nhất ta vẫn giữ được toàn lực-lượng của Hải-Quân ḿnh. Khi ấy, nếu thời cuộc thuận-tiện ta lại quay trở lại, vào Cần Thơ chẳng hạn. Ở đó vấn-đề tiếp-liệu c̣n đầy đủ. Dầu nhớt và đạn dược c̣n nhiều.

C̣n Phó Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh? Đô Đốc Cang lại cười và nói: "Ông Minh lo về liên-lạc, nên các chiến-hạm chỉ nghe thấy tiếng ông ấy. Nhưng trên thực tế, từ lúc tàu ra đi, cho đến khi giao tàu cho Mỹ, trên đường đi chúng ta đều tiếp-cứu các ghe xuồng của đồng-bào vượt biển hệ-thống chỉ-huy do tôi điều-khiển vẫn rất nghiêm-chỉnh. Tuy đất nước đă lọt vào tay Cộng-sản, nhưng đoàn tàu vẫn c̣n trương cờ Việt-Nam Cộng-Ḥa.

 

 

HQ. 500 đưa người di-tản ra khỏi Sài-G̣n

 

Từ Hạm-Đội HQ/VNCH chuyển sang Hạm-Đội Hải-Quân Phi

            Số chiến-hạm nguyên thuộc hạm-đội HQ/VNCH được chuyển-giao Hải-Quân Phi gồm có:

            - 1 Khu-Truc-Hạm DER: Trần-Hưng-Đạo HQ. 1.[388]         

- 6 Tuần-Dương-Hạm WHEC: Trần Quang Khải HQ. 2, Trần Nhật Duật HQ. 3, Trần B́nh Trọng HQ. 5 (chiếc này cũng đă lập nhiều-chiến-công trong trận hải-chiến ở Hoàng-Sa), Trần Quốc Toản HQ. 6, Lư Thường Kiệt HQ. 16 (từng tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa) và Ngô Quyền HQ. 17.

            - 5 Hộ-Tống-Hạm PCE: Đống Đa II HQ. 07, Chi Lăng II HQ. 08, Chí Linh HQ. 11, Ngọc Hồi HQ. 12 và Vạn Kiếp II HQ. 14.

            - 5 Dương-Vận-Hạm LST (Landing Ship Tank): Cam Ranh HQ. 500, Thị Nại HQ. 502, Nha-Trang HQ. 505, Mỹ Tho HQ. 800 và Cần Thơ HQ. 801.

            - 1 Cơ-Xưởng-Hạm ARL Vĩnh Long HQ. 802.

            - 3 Hải-Vận-Hạm LSM (Landing Ship Medium): Hát Giang HQ. 400, Hàn Giang HQ. 401 và Hương Giang HQ. 404.

            - 3 Trợ-Chiến-Hạm LSSL (Landing Ship Support Large): Đoàn Ngọc Tảng HQ. 228, Lưu Phú Thọ HQ. 229 và Nguyễn Đức Bổng HQ. 231.

            - 3 Giang-Pháo-Hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large): Thiên Kích HQ. 329, Lôi Công HQ. 330 và Tầm Sét HQ. 331.

            - 2 Hỏa-Vận-Hạm (Tầu chở dầu): HQ. 470 và HQ. 471.

            - 1 Tuần-Duyên-Đĩnh PGM: Ḥn Tróc HQ. 618.

 

Phụ-Chú: Giữ vững ư chí tiếp tục cuộc chiến.

Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ : Ư Nghiă Của Hai Pho Tượng (VIQR & VNI)

Tượng Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa và Đồng Minh tại Thành Phố Westminster , tiểu bang California , Hoa Kỳ là công tŕnh đầu tiên trên thế giới có tượng người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa cùng Chiến Sĩ Đồng Minh .

Pho Tượng người Chiến Sĩ Hoa Kỳ tượng trưng cho Khối Đồng Minh của VNCH. Tư thế và h́nh ảnh được cấu trúc pho tượng này, người xem có thể h́nh dung ra ư nghĩa rằng chiến sĩ Đồng Minh Hoa Kỳ đă bỏ nón sắt , hạ tay súng ngưng chiến đấụ

Pho tượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đang trong tư thế c̣n trang bị như biểu hiệu giữ vững ư chí tiếp tục cuộc chiến. Những chiến sĩ Đồng Minh đă rút đi v́ lịnh của Quốc Gia họ , Nam Nữ Dân Quân Cán chính VNCH phải lưu vong, nhưng trên Quê Hương Việt Nam thân yêu, đồng bào ruột thịt đang trong cảnh lầm than đau khổ;, người phụ nữ Việt Nam đang phải lưu lạc khắp nơi trong tủi nhục v́ bán thân chịu sự vùi dập để lấy đồng tiền tủi hổ nuôi sống gia đ́nh hay chạy thuốc thang cho cha mẹ già hấp hối trên giường bệnh; bé thơ đang hằng ngày lặn lội bên đống rác kiếm ăn hay lê la khắp đường phố xin ăn……... và, cảnh cảø làng vắt máu ḿnh đem bán để đổi lấy bữa ăn cho gia đ́nh sống sót từ nhiều năm …quạ . . nên người chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn chưa hạ tay súng , c̣n miệt mài tiếp tục chiến đấu cho Quê Hương được vẹn toàn và dân tộc được Tự Do, Ấm No và Hạnh Phúc với các quyền căn bản làm người . Tầm mắt pho tượng phóng nh́n vào tương lai Việt Nam Không C̣n Cộng Sản , ngày đó Chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa mới ngừng chiến đấu và cùng con cháu trở về xây dựng non sông.


 

 

 

Chương 7

 

Hệ-thống Tổ-Chức Tổng-Quát Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa

 

            Khởi đi từ số không, sau 20 năm tiến-triển, Hải-Quân Việt-Nam đă thực-sự trưởng-thành.[389]  Về tổ-chức, nói một cách tổng-quát, Hải-Quân được mô-tả như dưới đây:

 

Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân

            Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân[390] có nhiệm-vụ điều-hành, quản-trị và phát-triển Quân-chủng. Đứng đầu cơ-quan đầu năo có Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam. Phụ-Tá là Tư-Lệnh-Phó, rồi đến Tham-Mưu-Trưởng trách-nhiệm tham-mưu.

            Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân được chia ra làm các khối tham-mưu chính như sau:

- Khối Hành-Quân

- Khối Tiếp-vận

- Khối Nhân-viên

- Khối Chiến-tranh chính-trị

- Khối Quân-huấn

- Khối Quân-y

- Sở An-ninh Hải-Quân và

- Văn-pḥng Tổng Thanh-tra.

            Có 5 Tham-Mưu-Phó các Khối Hành-Quân, Tiếp-vận, Nhân-viên, Chiến-tranh Chính-trị và Quân-huấn. Có Trưởng khối Quân-Y, Trưởng Sở An-ninh Hải-Quân và Tổng Thanh-Tra. Cấp-số Phó Đề-Đốc.

            Mỗi khối chia ra nhiều-pḥng. Trưởng Pḥng có cấp-số Đại-Tá.

 

Chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam

            Chức-vụ Tư-Lệnh[391]  Hải-Quân Việt-Nam được lần-lượt đảm-nhiệm bởi các Sĩ-Quan sau đây:

 

Sơ-đồ Tổ-Chức HQVNCH

 


- HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ từ 20-8-1955 đến 11-1957 (thăng-cấp HQ Trung-Tá, rồi HQ Đại-Tá trong chức-vụ).

- HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn từ 11-1957 đến 6-8-1959 (thăng-cấp HQ Trung-Tá khi được bổ-nhiệm).

- HQ Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền từ 6-8-1959 đến 1-11-1963 (thăng-cấp HQ Trung-Tá khi được bổ-nhiệm, thăng-cấp HQ Đại-Tá trong chức-vụ).

- HQ Đại-Tá Chung-Tấn-Cang từ 11-1963 đến 4-1965 (thăng-cấp HQ Đại-Tá khi được bổ-nhiệm; thăng-cấp Phó Đề-Đốc và Đề-Đốc trong chức-vụ).

- HQ Đại-Tá Trần-Văn-Phấn từ 26-4-1965 đến tháng 9-1966.

- Trung-Tướng Cao-Văn-Viên từ 9-1966 đến tháng 10-1966.

- HQ Đại-Tá Trần-Văn-Chơn từ 1-11-1966 đến tháng 1-11-1974 (thăng-cấp HQ Đại-Tá khi được bổ-nhiệm; thăng-cấp Phó Đề-Đốc và Đề-Đốc trong chức-vụ).

- Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh từ tháng 1-11-1974 đến tháng 3-1975.[392]

- Phó Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang từ tháng 3-1975 đến 30-4-1975.[393]

 

Các Lực-Lượng Chiến-đấu [394]

            Lực-Lượng Chiến-đấu của Hải-Quân Việt-Nam điều-hành bởi 7 Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng và 9 Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng khác nhau như sau:

- 5 Vùng Duyên-Hải

- 2 Vùng Sông Ng̣i

- Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-đô

- Đặc-Khu Rừng Sát

- Liên-Đoàn Tuần-Giang

- Hạm-Đội

- Lực-Lượng Thủy-Bộ

- Lực-Lượng Tuần-Thám

- Lực-Lượng Trung-Ương

- Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải

- Và Thủy-Quân Lục-Chiến, Lực-Lượng Tổng-Trừ-Bị của QL/VNCH.

 

Năm Vùng Duyên-Hải

            Để phù-hợp với tổ-chức lănh-thổ và chiến-thuật, Hải-Quân Việt-Nam chia duyên-hải thành 5 Vùng được gọi là: Vùng I Duyên-Hải, Vùng II Duyên-Hải Vùng III Duyên-Hải, Vùng IV Duyên-Hải và Vùng V Duyên-Hải.

            Vùng Duyên-Hải có nhiệm-vụ chính-yếu là duy-tŕ an-ninh duyên-hải, các hải-đảo; ngăn-chận sự xâm-nhập bất-hợp-pháp bằng đường thủy; điều-động hành-quân các đơn-vị Hải-Quân trực-thuộc; tăng-phái và yểm-trợ hành-quân cho các Quân-Khu liên-hệ.

            Đơn-vị chính-yếu của Vùng Duyên-Hải là các Duyên-Đoàn, các Hải-Đội Duyên-pḥng, các Đài Radar Kiểm-Báo và các Căn-cứ Hải-Quân đồn-trú trong lănh-thổ trách-nhiệm.

            Suốt dọc duyên-hải Việt-Nam có 28 Duyên-Đoàn và 16 đài Radar Kiểm-Báo rải rác. Mỗi Duyên-Đoàn có 12 chiến-thuyền gắn động-cơ và gồm các loại:

- Ghe Chủ-lực

- Ghe Thiên-nga

- Duyên-Kích-Đĩnh

            Mỗi Hải-Đội Duyên-pḥng được trang-bị với những loại chiến-đĩnh gồm:

- Các Duyên-Tốc-Đĩnh- Patrol Craft, Fast (PCF).

- Các Tuần-Duyên-Đĩnh (WPB).

 

Hai Vùng Sông Ng̣i

            Hải-Quân Việt-Nam có hai Vùng Sông Ng̣i:

- Vùng 3 Sông Ng̣i bao gồm các sông rạch thuộc lănh-thổ Quân-Khu III.

- Vùng 4 Sông Ng̣i bao gồm các sông rạch thuộc lănh-thổ Quân-Khu IV.

            Hai Vùng Sông Ng̣i này có nhiệm-vụ chính-yếu là duy-tŕ an-ninh trên các sông rạch, ngăn-chận Cộng-Sản sử-dụng đường thủy để liên-lạc và xâm-nhập vùng trách-nhiệm; yểm-trợ hành-quân cho các đơn-vị bạn; phối-hợp hành-quân Liên-Quân và yểm-trợ kế-hoạch b́nh-định phát-triển địa-phương. Ngoài các Căn-cứ Hải-Quân, đơn-vị chính-yếu của Vùng Sông Ng̣i là những Giang-Đoàn Xung-phong được trang-bị bởi các Giang-đĩnh cũ do Hải-Quân Pháp để lại, gồm có các loại sau đây:

- Soái-Đĩnh

- Tiền Phong-Đĩnh

- Quân-Vận-Đĩnh

- Tiểu-Vận-Đĩnh

- Tiểu-Giáp-Đĩnh.

 

Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô

            Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô là vùng sông ng̣i thuộc lănh-thổ Biệt-Khu Thủ-đô, được thành-lập nhằm mục-đích thống-nhất việc điều-hành các đơn-vị Hải-Quân tại Sài-G̣n để góp phần bảo-vệ Thủ-Đô và cung-cấp những dịch-vụ cần-thiết cho các đơn-vị Hải-Quân đồn-trú tại Sài-G̣n. Ngoài ra Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-đô c̣n có nhiệm-vụ bảo-vệ an-ninh cho Quân-cảng và Thương-cảng Sài-G̣n.

 

Đặc-Khu Rừng Sát

            Kể từ năm 1962, Hải-Quân Việt-Nam được chỉ-định trách-nhiệm an-ninh khu-vực bao gồm hai con sông chiến-lược quan-trọng: sông Ḷng Tào và sông Soài Rạp. Hai con sông này là trục-lộ huyết-mạch nối liền Thủ-đô Sài-G̣n với Biển Đông. Đặc-Khu Rừng Sát là một rừng chồi dày đặc, thích-hợp cho hoạt-động của du-kích Cộng-sản; do đó việc đảm-trách an-ninh trên các sông rạch liên-hệ rất khó-khăn. Tuy nhiên Hải-Quân Việt-Nam đă giữ an-ninh cho hàng ngàn thương-thuyền tiếp-tế cho Sài-G̣n. Điều-này chứng-tỏ khả-năng hữu-hiệu của các Lực-Lượng tuần-tiễu Hải-Quân tại Đặc-Khu Rừng Sát. Cựu Đại-Tá Nelson, một Sĩ-Quan HQHK từng làm việc tại Đặc-khu này đă tiểu-thuyết hoá những hoạt-động giữ an-ninh thủy-lộ chiến-lược này qua một cuốn sách của Ông.[395]

 

Liên-Đoàn Tuần-Giang

            Trước đây Liên-Đoàn Tuần-Giang thuộc Địa-Phương-Quân, sau đó được sáp-nhập vào Hải-Quân; gồm có 24 Đại-đội Tuần-Giang, 3 Đại-đội sửa chữa và một Trung-Tâm Huấn-luyện tại Cát Lái. Các Đại-đội này được thành-lập để yểm-trợ hành-quân cho những Tiểu-Khu liên-hệ và bảo-vệ an-ninh trên sông rạch. Chiến-đĩnh Tuần-Giang gồm có các loại: Quân-Vận-Đĩnh LCM và Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP.

 

Hạm-Đội

            Hạm-Đội là đại đơn-vị ṇng-cốt của Hải-Quân Việt-Nam, quản-trị hành-chánh cho các chiến-hạm có khả-năng hoạt-động ngoài biển.

            Các chiến-hạm Hạm-Đội VNCH thường-xuyên :

- tuần-tiễu cận-duyên bảo-vệ lănh-hải và vùng cận-duyên

- tuần-tiễu vùng viễn-duyên để phát-giác và ngăn-chặn kịp thời các hoạt-động của địch

- hành-quân đổ-bộ, chuyên-chở, tiếp-tế, yểm-trợ sửa chữa các tiểu-đĩnh tại vùng hành-quân

- phối-hợp hành-quân và yểm-trợ Hải-pháo cho các đơn-vị bạn.

- bảo-vệ tài-nguyên, chống lại mọi hoạt-động bất-hợp-pháp.

Lần đầu là vào năm 1956, khi hào-khí của Hải-Quân nhất là Hải-Lực vừa mới dâng cao, khả-năng của HQVNCH được một số chức-quyền tin-tưởng. Những Vị này nghĩ rằng: Nếu một khi Hải-Quân được trang-bị đầy đủ, huấn-luyện kỹ-lưỡng, Quân-chủng này có thể thi-hành các hoạt-động tấn-công tiêu-diệt địch như theo các mục 5, 6, 7, và 8 như sau:

(5) Phong-toả hải-phận địch-quân.

(6) Đổ-bộ chiếm-cứ lănh-thổ địch.

(7) Hành-quân phá-hủy các vị-trí địch.

(8) Tiêu-diệt Hải-Quân của địch.[396]

 

Lực-Lượng Thủy-bộ:

Được thành-lập từ tháng 6 năm 1969 để thay thế Lực-Lượng Đặc-nhiệm 117 của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Lực-Lượng Thủy-Bộ hoạt-động tại vùng đồng-bằng sông Cửu-Long, gồm các chiến-đĩnh sau đây:

- Soái-Đĩnh Thủy-Bộ

- Tiền-Phong-Đĩnh

- Quân-Vận-Đĩnh Tác-chiến

- Trợ-Chiến-Đĩnh

 

Lực-Lượng Tuần-Thám

            Lực-Lượng Tuần-Thám được thành-lập từ tháng 10 năm 1969 và gồm có 14 Giang-Đoàn, chia ra thành 6 Liên-Đoàn Tuần-Thám. Nhiệm-vụ chính-yếu của Lực-Lượng Tuần-Thám là tuần-tiễu, bảo-vệ an-ninh sông ng̣i và ngăn-chận sự xâm-nhập lén-lút của Cộng-Sản Bắc-Việt bằng đường thủy qua ngả hành-lang biên-giới Miên Việt. Mỗi Giang-Đoàn Tuần-Thám được trang-bị các Giang-Tốc-Đĩnh tối-tân có vận-tốc cao và khả-năng hoạt-động trong các nơi sông cạn và rất dễ dàng vận-chuyển.

 

Lực-Lượng Trung-Ương

Lực-Lượng Trung-Ương được thành-lập nhằm mục-đích tập-trung-một số đơn-vị Hải-Quân, để thi-hành những nhiệm-vụ đặc-biệt có tầm hoạt-động liên vùng  

Lực-Lượng Trung-Ương gồm có các đơn-vị sau đây:

- 07 Giang-Đoàn Ngăn-chận

- 02 Giang-Đoàn Trục-lôi

 

Thủy-Quân Lục-Chiến

            Thủy-Quân Lục-Chiến đă được bành-trướng tới cấp Sư-Đoàn. Tuy nằm trong Quân-chủng Hải-Quân một cách lỏng lẻo về phương-diện tổ-chức quân-binh-chủng, nhưng trên thực-tế về hành-quân, Binh-chủng này là Lực-Lượng Tổng-Trừ-Bị đặt dưới quyền điều-động hành-quân của Bộ Tổng-Tham-Mưu.

            Cấp-số lư-thuyết của Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến là 14,072 người. Luôn luôn, quân-số của Sư-Đoàn được bổ-sung kịp thời mỗi khi bị hao-hụt v́ chiến-trận.

Vào năm 1974 v́ nhu-cầu hành-quân, Sư-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến thứ hai được dự-trù thành-lập. Thành-phần trang-bị sơ-khởi là Lữ-Đoàn 468 (gồm các Tiểu-Đoàn 14, 16, 18) và 1 Pháo Đội 105 ly.

 

Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải

            Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải được thành-lập từ tháng 3 năm 1964 và đặt trực-thuộc Quân-chủng Hải-Quân về phương-diện nhân-viên và hành-chánh. Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải có nhiệm-vụ thi-hành các chỉ-thị của Nha Kỹ-Thuật Bộ Tổng-Tham-Mưu để thi-hành các công-tác hành-quân đặc-biệt của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa dọc duyên-hải Nam cũng như Bắc Việt-Nam.

 

Chỉ-huy và Điều-động Hành-Quân

            Để việc hành-quân được hữu-hiệu, các Lực-Lượng Chiến-đấu Hải-Quân được đặt dưới sự Chỉ-huy và điều-động hành-quân của BCH/Hhq/LĐ Sông và BCH/Hhq/ LĐ Biển.

 

Bộ Chỉ-Huy Hành-quân Lưu-động Sông

Chỉ-huy và điều-động các cuộc hành-quân trong sông ng̣i thuộc lănh-thổ Quân-Khu III - Quân-Khu IV và Biệt-Khu Thủ-Đô nhằm mục-đích ngăn-chận địch-quân xâm-nhập và chuyển-vận tiếp-tế bằng đường sông. Bảo-vệ an-ninh sông ng̣i và yểm-trợ các Sư-Đoàn Bộ-Binh hành-quân qua các cuộc Hành-Quân Trần-Hưng-Đạo 36, 41, 43, 44.

 

Bộ Chỉ-Huy Hành-Quân Lưu-động Biển

Để việc kiểm-soát toàn-thể Hải-phận Việt-Nam Cộng-Ḥa được thực-hiện hữu-hiệu và liên-tục, BCH/Hhq/LĐ Biển được thành-lập để Chỉ-huy và điều-động các cuộc hành-quân Trần-Hưng-Đạo Biển dọc theo duyên-hải Việt-Nam, nhằm tạo một màn lưới ngăn-chận mọi sự xâm-nhập của Cộng-SảnBắc-Việt bằng đường biển, đồng-thời yểm-trợ các Lực-Lượng bạn dọc hải-biên, hành-quân diệt địch và b́nh-định phát-triển. Có 5 vùng Hành-Quân Biển, mỗi vùng được kiểm-soát bởi một Lực-Lượng Đặc-nhiệm gồm khoảng 100 chiến-hạm, chiến-đĩnh và chiến-thuyền.

Tính từ bờ ra khơi, Hành-Quân Biển chia thành 3 hành-lang tuần-tiễu:

- Hành-lang cận-duyên từ bờ biển ra đến 12 hải-lư và được các chiến-thuyền, Duyên-Tốc-Đĩnh, Tuần-Duyên-Đĩnh, Tuần-Duyên-Hạm đảm-trách hoạt-động tuần-tiễu.

- Hành-lang viễn-duyên từ 12 hải-lư ra đến 53 hải-lư được những loại chiến-hạm sau đây đảm-trách tuần-tiễu: Khu-Trục-Hạm, Tuần-Dương-Hạm, Hộ-Tống-Hạm.

- Hành-lang Không-thám từ 53 hải-lư đến 100 hải-lư do các phi-cơ Không-thám HQ Hoa-Kỳ trách-nhiệm hoạt-động.[397]

 

Tiếp-vận

            Bộ Chỉ-Huy Yểm-Trợ Tiếp-Vận là cơ-quan có nhiệm-vụ yểm-trợ các Lực-Lượng Hành-Quân. Nếu nói đến quân-số, Bộ Chỉ-Huy này quản-trị hành-chánh, kỹ-thuật, tiếp-vận liên-hệ đến một quân-số thật lớn lao lên đến 13,000 người.

Các đơn-vị trực-thuộc Bộ Chỉ-Huy Yểm-Trợ Tiếp-Vận Hải-Quân gồm có:

* Hải-Quân Công-Xưởng, Trung-Tâm Tiếp-Liệu, Ty Công-Thự Tiện-Ích, Trung-Tâm Sửa chữa Điện-Tử.

* 07 Căn-cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận tại: Đà Nẵng, Cam Ranh, Cát Lở, Nhà Bè, An Thới, Đồng-Tâm và B́nh-Thủy.

 

 

 

Sơ-đồ Tổ-Chức HQCX

 

 

 

Sơ-đồ Điều-Hành Trung-Tâm Tiếp-Liệu

 

Huấn-luyện

            Hải-Quân Việt-Nam có 03 Trung-Tâm Huấn-luyện tại Nha Trang, Cam Ranh và Sài-G̣n.[398]:

* TTHL/HQ Nha Trang: Có khả-năng huấn-luyện từ 1,200 đến 1,500 khóa-sinh gồm có các trường Sĩ-Quan Hải-Quân, trường Cao-Đẳng chuyên-nghiệp và trường Sơ-Đẳng chuyên-nghiệp.

* TTHL/HQ Cam Ranh: Có khả-năng huấn-luyện từ 1500 đến 1800 khóa-sinh gồm các trường Huấn-luyện Chiến-hạm, trường Pḥng-tai, trường Sơ-Đẳng Chuyên-nghiệp và trường Tân-binh Hải-Quân.

 * TTHL/HQ Sài-G̣n: Có khả-năng huấn-luyện 200 khóa-sinh gồm các trường Chỉ-huy Tham-Mưu Hải-Quân, trường Chuẩn-Úy Đoàn-viên, trường Trung-Đẳng Chuyên-nghiệp và các khóa huấn-luyện bổ-túc ngắn hạn.

            Ngoài ra c̣n có một Trung-Tâm Huấn-luyện Tuần-Giang tại Cát Lái trực-thuộc Liên-Đoàn Tuần-Giang, chuyên phụ-trách huấn-luyện thêm các khóa Hạ-Sĩ-Quan và Sơ-Đẳng chuyên-nghiệp các ngành Quản-kho và Tiếp-vụ.

 

Tâm-lư-chiến

Hải-Quân đóng góp đáng kể vào công-cuộc bảo-vệ nền kinh-tế quốc-gia do sự Hộ-tống các đoàn xà-lan và ghe chở gạo về Sài-G̣n và miền Đông. Hải-Quân cũng phối-hợp với các đơn-vị Điạ-Phương-Quân và Nghiă-Quân để giúp đỡ nông-dân yên ổn làm ăn tại vùng ven sông. Từ năm 1965 đến năm 1966, Hải-Quân có hai Bệnh-Viện-Hạm HQ. 400 và HQ. 401 luân-phiên hoạt-động tại các vùng bờ biển có các đơn-vị Hải-Quân trú đóng và tại Vùng 3 và Vùng 4 Sông Ng̣i để cung-cấp dịch-vụ y-tế cho đồng-bào nông-thôn, và thi-hành các công-tác dân-sự-vụ.[399]

 

 

Bệnh-Viện-Hạm HQ. 400 - LSM(H)

 

 

Chương 8

 

Điều-hành của một số Đại-Đơn-Vị và Đơn-vị Tiêu-chuẩn

 

Hoạt-động và tổ-chức điều-hành một số đại-đơn-vị và đơn-vị tiêu-chuẩn được tŕnh-bày dưới đây:[400]

 

Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha Trang

            Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang tọa-lạc trên đường Duy Tân nối dài, qua khỏi phi-trường quân-sự Nha-Trang và trước khi tới Chụt.

            Công-tác xây cất Trung-Tâm Huấn-luyện được khởi-sự vào tháng 11-1951 và hoàn-tất vào tháng 7-1952. Hải-Quân Pháp chuyển-giao hoàn-toàn cho Hải-Quân Việt-Nam ngày 7 tháng 11 năm 1955.

            Từ ngày Hải-Quân Việt-Nam chính-thức điều-hành cho đến tháng 4-1975, Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang đă được các Sĩ-Quan sau đây chỉ-huy:

- Hải-Quân Đại-Úy Chung-Tấn-Cang từ 7-11-55 đến 29-3-58 (thăng cấp Thiếu-Tá trong chức-vụ).

- Hải-Quân Thiếu-Tá Đặng-Cao-Thăng từ 29-3-58 đến 10-2-60.

- Hải-Quân Thiếu-Tá Vương-Hữu-Thiều-từ 10-2-60 đến 19-1-63.

- Hải-Quân Đại-Úy Dư Trí Hùng từ 19-1-63 đến 23-12-63 (thăng cấp Thiếu-Tá trong chức-vụ).

- Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đức Vân từ 23-12-63 đến 26-2-66.

- Hải-Quân Thiếu-Tá Bùi-Hữu-Thư từ 26-2-66 đến 13-7-66.

- Hải-Quân Đại-Tá Đinh-Mạnh-Hùng từ 13-7-66 đến 1-3-69.

- Hải-Quân Đại-Tá Khương-Hữu-Bá từ 1-3-69 đến 6-8-71.

- Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Trọng Hiệp từ 6-8-71 đến 16-1-73 (thăng cấp Đại-Tá trong chức-vụ).

- Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Thanh-Châu từ 16-1-73 đến 4-75 (thăng cấp Phó Đề-Đốc trong chức-vụ).

            Từ khóa đầu-tiên do Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam tuyển-mộ và huấn-luyện, khóa IIX Sĩ-Quan Hải-Quân Nha Trang, tiêu-chuẩn tuyển-chọn Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân là bằng tú-tài toàn phần, ban toán. Sinh-Viên được huấn-luyện quân-sự theo tiêu-chuẩn các Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân quốc-tế. Về văn-hóa, Sinh-Viên được giảng dạy theo chương-tŕnh Đại-học. Chương-tŕnh thụ-huấn là hai năm và Sinh-Viên ra trường với cấp-bậc Thiếu-Úy Hải-Quân.

 

Quang-cảnh Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân mỗi sáng Thứ Hai đầu tuần

 

            Sau năm 1962, v́ số lượng Sĩ-Quan tốt-nghiệp không đủ cung-ứng cho nhu-cầu Hải-Quân, thời-gian huấn-luyện được rút ngắn bớt đi bốn tháng .

Đến năm 1969 v́ t́nh-trạng đôn quân, sau khóa 18 Sinh-Viên Sĩ-Quan, một lần nữa Hải-Quân lại phải thay đổi luôn chương-tŕnh huấn-luyện Sĩ-Quan mười tám tháng.

            Kể từ khóa 19, Sinh-Viên được tuyển-mộ nhiều-hơn, khoảng hai trăm Sinh-Viên cho mỗi khóa. Về văn-hóa, Sinh-Viên vẫn được dạy theo chương-tŕnh Đại-học như các khóa đàn anh. Về quân-sự, Sinh-Viên được rèn-luyện theo hệ-thống tự chỉ-huy. Sau khi thụ-huấn một năm, Sinh-Viên được đi thực-tập một thời-gian ngắn rồi tốt-nghiệp với cấp-bậc Thiếu-Úy Hải-Quân.

            Khóa 26 Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân là khóa cuối cùng của Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha Trang.

            Trong suốt thời-gian từ khi thành-lập cho đến tháng 4-1975, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang đă đào-tạo được 2,538 Sĩ-Quan, cả hai ngành chỉ-huy lẫn cơ-khí; 15,050 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên chuyên-nghiệp đủ mọi ngành.

Tổ-Chức TTHL/HQ/NT

Theo Sơ-đồ tổ-chức, hai khối Quân-Sự-Vụ và Văn-Hoá-Vụ liện-hệ mật-thiết đến việc huấn-luyện cho khóa-sinh.

1) Khối Quân-Sự-Vụ: Có 2 Liên-Đoàn:

a) Liên-Đoàn SVSQ gồm 2 khoá, một khóa đàn anh và một khóa đàn em.

b) Liên-Đoàn Chuyên-nghiệp gồm các khoá-sinh tân-tuyển cũng như các khoá-sinh học chuyên-nghiệp, các HSQ học chuyên-nghiệp.

Trách-nhiệm về sinh-hoạt, quân-phong quân-kỷ, hệ-thống tự chỉ-huy, các cuộc thanh-tra, tổ-chức các cuộc lễ diễn-hành và lễ măn khóa.

c) Pḥng Thể-Thao đảm-trách việc huấn-luyện thể-dục, thể-thao và vơ-thuật.

2) Khối Văn-Hoá-Vụ: Có 2 trường:

a) Trường Sĩ-Quan Hải-Quân, có một Hiệu-Trưởng.

b) Trường Sơ-Đẳng Chuyên-Nghiệp Hải-Quân, có một Hiệu-Trưởng.

Trách-nhiệm về các chương-tŕnh huấn-luyện, tổ-chức thi định-kỳ, thi trắc-nghiệm và thi măn-khóa.

c) Quản-Lư Thư-viện và pḥng Trợ-Huấn-Cụ.[401]

 

Hải-Quân Công-xưởng Sài-G̣n

            Vào thời Nguyễn Ánh chiến-tranh với Tây-Sơn, một xưởng Chu-Sư tại Gia-Định được h́nh-thành. Sử-gia Trịnh Hoài-Đức ghi nhận: xưởng lập vào tháng 12 năm Canh-Tuất (đầu năm 1791), dọc từ bờ sông Tân-B́nh đến sông B́nh-Trị, chứa những dụng-cụ thủy-chiến và các loại ghe tàu. Cuốn Gia-Định Thành Thông Chí viết: Xưởng Chu-Sư ở về phía Đông thành Phiên-An, dài 3 dậm. John Barrow cũng ghi chép là xưởng này vừa đóng tàu thuyền vừa chế-tạo vũ-khí. Lelabrousse tả các xưởng này: Các xưởng thủy-quân và quân-cảng của Nguyễn-Ánh làm người ngoại-quốc ngạc-nhiên và chắc sẽ khiến cả Âu-châu thán-phục...[402] Trong giai-đoạn đó (1792-1793) riêng số lính thợ làm thuốc súng ở xưởng đă có tới 8,000 người.[403] Tóm lại, xưởng Chu-Sư vào cuối thế-kỷ 18 rất đông nhân-công và rất rộng, chạy dài theo sông Thị-Nghè suốt dọc từ Thảo-Cầm-Viên ra đến tận sông Sài-G̣n.

Hải-Quân Công-Xưởng mà ta thấy sau này, chỉ chiếm một phần phía Đông-Nam của Xưởng cũ, số thợ làm việc cũng ít hơn. Tuy vậy, Hải-Quân Công-Xưởng vẫn c̣n là một trong những Thủy-xưởng lớn nhất Đông-Nam Á Châu. Hải-Quân Công-Xưởng gồm 87 ṭa nhà; mỗi ṭa nhà được sử-dụng như một cơ-xưởng.

            Ngoài các cơ-xưởng c̣n có hai ụ ch́m; một ụ dài 520 feet và ụ kia dài 119 feet; một ụ nổi có khả-năng sửa tàu nặng một ngàn tấn; bốn đường rầy, bảy cần trục lưu-thông, một ḷ nấu chảy. Các cơ-sở đó tọa lạc trên 53 mẫu đất.[404]

            Nói tổng-quát, Hải-Quân Công-xưởng là một đơn-vị lớn, có hơn 4,000 thợ dân-chính và gần 1,000 quân-nhân các cấp có khả-năng nghề-nghiệp để đảm-nhiệm những công-việc sau:

            - Sửa chữa đại-kỳ, định-kỳ.

            - Sửa chữa bất-thường

            - Tân-trang và chế-tác chiến-đĩnh.[405]

            Các ghe Hải-Thuyền, ghe Ciment lưới gà được sản xuất từ HQCX.

            Với cần trục cao và ụ lớn nhứt tại VN ngoài việc sửa chữa cho các chiến-hạm HQ, HQCX c̣n giúp cho thương-thuyền VN được vào ụ để tu-bổ lườn tàu.

            Phụ-Tá Giám-đốc HQCX là hai vị Phó Giám-Đốc về Hành-Chánh và Kỹ-Thuật. HQCX chia ra 4 ty: Ty Hành-Chánh Nhân-Viên, Ty Điều-Hành Công-Xưởng, Ty Kế-Hoạch Trù-Liệu Ty Tiếp-Liệu, Khu Tu-Bổ Vận-Chuyển.

 

GĐ/HQCX

 

Phó GĐ/HC    Phó GĐ/KT

Ty HCNV  Ty DHCX  Ty KHTL  Ty TL  KhuTuBổVChuyển

 

Xưởng Điện Tử

Xưởng Điện Khí

Xưởng Đồng

Xưởng Mộc

Xưởng Động-Cơ

Xưởng Hải-Pháo

Xưởng Đúc

Xưởng Tiện, Nguội

Xưởng Buồm

Khu U-Nề.[406]

           

Ngay từ khi thành-lập, HQCX được tiếng là nơi trả lương rất hậu. Công-nhân có quy-chế như công-chức chính-phủ. Tuy vậy vào giữa thập-niên 1960, một biến-cố đột-ngột đă xảy ra, làm cho t́nh-trạng thiếu-thốn nhân-viên trầm trọng. Khi các công-ty thầu-khoán ngoại-quốc theo người Hoa-Kỳ vào làm ăn ở Việt-Nam, họ trả lương thợ lành nghề nhiều lần lớn hơn mức trung-b́nh cho xứ ta. Một số nhân-viên giỏi của HQCX đă bỏ đi. Năm 1965-1968, Hải-Quân Công-xưởng mất 640 trong 1,500 thợ bỏ đi làm các hăng trả tiền nhiều-hơn.[407] Rút tỉa kinh-nghiệm này, ban Giám-Đốc nghiên-cứu lại chương-tŕnh thâu-nhận, huấn-luyện cùng thay đổi khế-ước. Sau đó t́nh-trạng nhân-viên mới dần dần trở lại mức điều-ḥa.

 

Các Vùng Sông Ng̣i

 

Hành-Quân Lưu-động Sông

Tổng-quát: Hành-Quân Lưu-động Sông trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân.

Phụ-tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Sông chịu trách-nhiệm điều-hành tất cả hành-quân trong sông.

Thành-phần: - Về hành-quân, Hành-Quân Lưu-động Sông gồm có:

- Vùng III và Vùng IV Sông ng̣i.

- Lực-Lượng ThủyBộ (Lực-Lượng đặc-nhiệm 211).

- Lực-Lượng Tuần-Thám (Lực-Lượng đặc-nhiệm 212).

- Lực-Lượng Trung-Ương (Lực-Lượng đặc-nhiệm 214).

- Các Giang-Đoàn Xung-phong.

Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Sông cuối cùng: Phó Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng.

 

Vùng IV Sông Ng̣i

Tổ-chức: Bộ Chỉ-Huy Vùng IV Sông Ng̣i gồm:

Tư-Lệnh,

Tư-Lệnh-Phó và

Tham-Mưu-Trưởng.

Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Sông Ng̣i kiêm Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-nhiệm 21.[408]

            Về hành-quân, Hạm-Đội Đặc-nhiệm 21 chỉ-huy và điều-động các Lực-Lượng Đặc-nhiệm tăng-phái và Lực-Lượng Hải-Quân cơ-hữu thuộc vùng IV Sông Ng̣i. Bộ Tư-Lệnh đặt tại Cần Thơ.

Thành-phần: Các đơn-vị cơ-hữu của Hải-Quân Vùng IV Sông Ng̣i gồm các Giang-Đoàn Xung-Phong sau đây:

- Giang-Đoàn 21 và 33 tại Mỹ Tho.

- Giang-Đoàn 23 và 31 tại Vĩnh Long.

- Giang-Đoàn 26 tại Long Xuyên.

- Giang-Đoàn 25 và 29 tại Cần Thơ.

Về yểm-trợ tiếp-vận, có các Căn-Cứ Yểm-Trợ và Tiền-Doanh Yểm-Trợ. Tiền-phương Yểm-trợ là đơn-vị yểm-trợ tiếp-vận tại-chỗ cũng được thành-lập theo nhu-cầu hành-quân.

            Ngoài các đơn-vị cơ-hữu và yểm-trợ đó, Vùng IV Sông Ng̣i c̣n kiểm-soát ba Lực-Lượng Đặc-nhiệm (Task forces) tăng-phái: LLĐN 211, LLĐN 212, LLĐN 214.

Phạm-vi hoạt-động: Địa-bàn hoạt-động của Hải-Quân Vùng IV Sông Ng̣i gồm tất cả sông rạch các tỉnh: Định Tường, Kiến Tường, Kiến Phong, An Giang, Châu Đốc, G̣ Công, Phong Dinh v.v... và được chia làm ba vùng, mỗi Lực-Lượng Đặc-nhiệm trách-nhiệm một vùng để yểm-trợ cho một Sư-Đoàn Bộ-Binh.

            Tư-Lệnh cuối cùng: Phó Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng.

 

 

Huy-Hiệu Vùng 4 SN

 

Vùng III Sông Ng̣i

Tổ-chức: Vùng III Sông Ng̣i gồm Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.

Bộ Tư-Lệnh đặt tại Long B́nh.

Thành-phần: Các đơn-vị cơ-hữu của Vùng III Sông Ng̣i gồm:

- Giang-Đoàn 22 và 28 Xung-phong đóng tại Nhà Bè.

- Giang-Đoàn 24 và 30 Xung-phong đóng tại Long B́nh và nhiều-Tiền-Doanh Yểm-Trợ.

- Ngoài ra, Vùng III Sông Ng̣i cũng có sự tăng-phái của các Lực-Lượng Đặc-nhiệm 211, 212, 214.

Phạm-vi hoạt-động: Vùng hoạt-động của Vùng III Sông Ng̣i gồm sông rạch các tỉnh: Biên-Ḥa, Gia Định, Long An, Hậu Nghĩa, B́nh Dương, Tây Ninh.

            Tư-Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Quang Xuân.

 

Giang-Đoàn Xung-phong

Tổ-chức: Mỗi Giang-Đoàn Xung-phong (River Assault Group) được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc Đại-Úy Hải-Quân. (Về sau, các Sĩ-Quan tốt-nghiệp trường Bộ-Binh Thủ-Đức cũng được huấn-luyện để giữ các chức-vụ này).

Trang-bị: Mỗi Giang-Đoàn Xung-phong được trang-bị như sau:

- 6 LCVP. Mỗi LCVP được trang-bị 1 Đại-bác 20 ly, 2 Đại-liên 7 ly 62.

            - 6 FOM. Mỗi FOM được trang-bị 1 Đại-liên 12 ly 7, 3 Đại-liên 7 ly 62.

- 4 LCM. Mỗi LCM được trang-bị 2 Đại-bác 20 ly, 2 Đại-liên 12 ly 7.

            - Một Monitor Combat, trang-bị: 1 Đại-bác 40 ly, 1 Súng cối 81 ly, 2 Đại-liên 7 ly 62, một Đại-liên 12 ly 7.

- Một Commandement trang-bị: 1 Đại-bác 20 ly, 2 Đại-liên 12 ly 7, 2 Đại-liên 7 ly 62 (hoặc 20 ly) và một súng cối 81 ly.

            Ngoài ra, trên mỗi giang-đĩnh đều có các loại súng cá-nhân như M79, M16...

Nhiệm-vụ: Chuyển-vận, yểm-trợ và phối-hợp hành-quân với quân bạn.

Vùng hoạt-động: Tất cả sông rạch thuộc miền Nam Việt-Nam.

Đội-h́nh di-chuyển

- 2 LCVP (Tiểu-Vận-Đĩnh)

- 2 FOM (Tiểu-Giáp-Đĩnh)

- 1 Monitor Combat (Tiền-Phong-Đĩnh)

- 2 LCVP

- 1 LCM

- 2 FOM

- 1 LCM

- 2 LCVP

- 1 LCM

- 1 Commandement (Soái-Đĩnh)

- 2 FOM.

* Đội-h́nh có thể thay đổi tùy theo nhu-cầu chiến-trường.

 

Lực-Lượng Thủy-bộ

(Lực-Lượng Đặc-nhiệm 211)

            Lực-Lượng đầu-tiên Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển-giao cho Hải-Quân Việt-Nam là River Assault Force (Giang-Lực Thủy-Bộ). Lễ chuyển-giao được thực-hiện tại Hải-Quân Công Xưởng Sài-G̣n vào tháng 8 năm 1969. Hải-Quân Việt-Nam đặt tên là Lực-Lượng Thủy-Bộ. Khi hành-quân, danh-số đặc-nhiệm là : Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211 (LLĐN211)

Thành-phần Lực-Lượng Thủy-Bộ gồm:

- 1 Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng, đóng hậu-cứ tại Đồng Tâm.

- 3 Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Thủy-Bộ.

- 6 Giang-Đoàn Thủy-Bộ.

Mỗi Giang-Đoàn gồm có 15 giang-đĩnh gồm: 1 Soái-Đĩnh, 2 Thiết-Giáp-Đĩnh, 8 Quân-Vận Đĩnh và 4 Trợ-Chiến-Đĩnh.

Khi Lực-Lượng Thủy-Bộ phối-hợp với 1 Lữ-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến, nó trở thành một Lực-Lượng Thủy-Lục. Đây là thành-phần tổng-trừ-bị trực-thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa. Sau khi thành-lập, Lực-Lượng Thủy Lục được tăng-phái cho Quân-Đoàn IV, sau đó cho Sư-Đoàn 21 Bộ-Binh. Từ tháng 9 đến cuối năm 1969. Lực-Lượng Thủy Lục hành-quân tảo-thanh trong mật-khu U Minh và khai-thông kinh Cán Gáo từ Kiên-An đến Cà Mau.

Vào tháng 5 năm 1970, Lực-Lượng Thủy-Bộ được chỉ-định tham-gia cuộc Hành-quân Trần-Hưng-Đạo vượt sang Cambodge cho đến hết năm 1970. Từ khi thành-lập cho đến tháng 4 năm 1975, Lực-Lượng Thủy-Bộ hoạt-động hầu hết trong lănh thổ Quân-Đoàn IV/ Vùng IV Chiến-Thuật.[409]

            Mỗi Liên-Đoàn có 2 Giang-Đoàn và được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá Hải-Quân; mỗi Giang-Đoàn được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc một Đại-úy. Các Liên-Đoàn điều-hành như sau:

- Liên-Đoàn I Thủy-bộ (tức Liên-Đoàn Đặc-nhiệm 211.1) gồm hai Giang-Đoàn 70 và 71 Thủy-bộ. Hậu-cứ: Long Phú.

Nhiệm-vụ: Liên-Đoàn I phối-hợp hành-quân với các Chi-Khu thuộc Tiểu-khu Sóc Trăng và hộ-tống các đoàn thuyền chuyên-chở nhu-yếu-phẩm từ Bạc Liêu, Sóc Trăng về Sài-G̣n.

- Liên-Đoàn II Thủy-bộ (tức Liên-Đoàn Đặc-nhiệm 211.2) gồm hai Giang-Đoàn 72 và 73 Thủy-bộ. Hậu-cứ: Cà Mau.

Nhiệm-vụ: Liên-Đoàn II Thủy-bộ yểm-trợ Trung-Đoàn 32 Bộ-Binh đồng-thời phối-hợp hành-quân và tiếp-tế cho các đơn-vị thuộc vùng Cà Mau.

- Liên-Đoàn III Thủy-bộ (tức Liên-Đoàn Đặc-nhiệm 211.3) gồm hai Giang-Đoàn 74 và 75 Thủy-bộ. Hậu-cứ: Rạch Sỏi thuộc tỉnh Kiên-Giang.

Vùng hoạt-động: Liên-Đoàn III Thủy-bộ tuần-tiễu, kiểm-soát các thủy-lộ của hai tỉnh Kiên-Giang và Chương Thiện.

Đội-h́nh di-chuyển:

- 2 Giang-Đĩnh rà ḿn.*

- 2 Alpha.**

- Monitor Combat.

- 5 Tango, chở quân.

- Monitor Commandement.

- 2 Alpha.

            Đội-h́nh có thể thay đổi tùy theo nhu-cầu chiến-trường.

* Trước năm 1973, v́ thường chuyển quân qua các băi ḿn của địch, các Giang-Đoàn Thủy-bộ được trang-bị thêm các giang-đĩnh rà và trục ḿn. Trong các cuộc hành-quân với Sư-Đoàn 21 Bộ-Binh tại U Minh, hai giang-đĩnh rà ḿn thường đi tiên-phong, rà ḿn mở đường.

 ** V́ chiến-trường đ̣i hỏi hỏa-lực, Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Thủy-bộ đă biến-cải mỗi Alpha trang-bị thêm một súng 81 ly trực-xạ.

            Lực-Lượng Thủy-bộ c̣n có một Căn-Cứ Yểm-Trợ đặt tại B́nh Thủy, Cần Thơ để cung-cấp nhiên-liệu cũng như sửa chữa và tu-bổ chiến-đĩnh.

            Tư-Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Bá Trang.

 

 

Giang đĩnh Lực-Lượng Thủy-bộ.

 

Lực-Lượng Tuần-Thám- Một Tiêu-chuẩn về Tổ-Chức

            Phần tổ-chức Lực-Lượng Tuần-Thám[410] được tŕnh-bày chi-tiết dài ḍng hơn các tổ-chức khác. Những trang sau đây cung-cấp nhiều tài-liệu liên-hệ đến các vấn-đề thường-xuyên mà các lực-lượng khác cũng gặp phải về cả hai trách-vụ chính

- hành-chánh

- đặc-nhiệm.

 I. Thành-Lập.

Vào tháng 4, năm 1966, thi-hành Chương-tŕnh Viện-Trợ Quân-Sự (MAP), Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam (COMNAFORV) trang-bị và huấn-luyện 2 Giang-Đoàn tuần-thám đầu tiên[411] cho Hải-Quân Việt-Nam. Đó là các Giang Đoàn 51 Tuần-Thám (CHT: HQ Đại-Úy Trần Văn Lâm) và Giang Đoàn 52 Tuần-Thám (CHT: HQ Đại-Úy Nguyễn Thế Sinh).

Trong khi trú đóng tại Cát Lái, hai giang-đoàn này hoạt-động chung với các giang-đoàn tuần-thám Hoa-Kỳ thuộc TF-116 trên Sông Đồng Nai và các sông rạch thuộc Đặc Khu Rừng Sát.

Tháng 7 năm 1969, Lực-Lượng Tuần-Thám được chính-thức thành-lập theo kế-hoạch ACTOV. Việt-Nam tiếp-nhận các doanh trại, giang-đĩnh và chiến-cụ do Lực-Lượng Tuần-Giang Hoa-Kỳ và Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 116 chuyển-giao. Diễn-tŕnh chuyển-giao, tiếp-nhận, và huấn-luyện thực-tập (on the the job training - OJT) hoàn-tất vào cuối năm 1969.

II. Tổ-chức Lực-Lượng.

Lực-Lượng Tuần-Thám (LLTT) là một đại đơn-vị, thống-thuôc BTL/HQ, bao gồm

- Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám (BTL/LLTT),

- 6 Liên-Đoàn Tuần-Thám (LĐTT),

-15 Giang Đoàn Tuần-Thám (GĐTT), và

- 5 căn-cứ:      CCHQ/Mỹ Tho (Định Tường),

CCHQ/ Cái Dầu (Châu Đốc),

CCHQ/Tân Châu (Châu Đốc),

CCHQ/Tuyên-Nhơn (Kiến Tường), và

CCHQ/ B́nh-Thủy (Phong Dinh)[412].

2.1 Tổ-chức Tham-mưu

Tổ-chức tham-mưu của BTL/LLTT rập khuôn theo tổ-chức tham-mưu của BTL/HQ nhưng trong một phạm-vi hạn hẹp hơn.

Tổ-chức này gồm có:

Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó, Tham-Mưu-Trưởng, Tham-Mưu-Phó Hành-quân, Tham-Mưu-Phó Tiếp-vận,.

Dưới TMP/HQ có Trung-Tâm Hành-Quân, Pḥng 2, Pḥng 3 và GĐ 65 TT (trừ-bị). Thuộc quyền TMP/TV có Pḥng 1, Pḥng 4, Pḥng Quân-Y, Pḥng Chiến-Tranh Chính-Trị.

Ngoài ra, BTL/LLTT c̣n có Pḥng An-Ninh, là một đơn-vị do Khối An-Ninh Hải-Quân tăng-phái, được đặt dưới quyền điều-động trực-tiếp của TMT/LLTT.

Khi mới thành-lập BTL/LLTT đồn trú tại CCYTTV/B́nh-Thủy. Tháng 10, 1971, BTL/LLTT di-chuyển sang CCHQ/B́nh-Thủy sau khi tiếp-nhận căn-cứ này từ BTL/V4SN. Đến tháng 11, 1972, BTL/LLTT chuyển-giao CCHQ/B́nh-Thủy cho BTL/LLTB và di-chuyển về đồn-trú tại CCHQ/Mỹ Tho.

Tư-Lệnh LLTT đầu tiên, cũng là sau chót, là HQ Đại-Tá Nghiêm-Văn-Phú. Ông thăng-cấp Phó Đề-Đốc năm 1974.

2.2 Các đơn-vị tác-chiến cơ-hữu

- Liên-Đoàn 1 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCYTTV/ Nhà Bè, gồm các Giang Đoàn 51 TT, hậu-cứ: CCHQ/Cát Lái, Giang Đoàn 52 TT, CCHQ/ Long B́nh. và Giang Đoàn 57 TT, hậu-cứ: CCYTTV/Nhà Bè. CHT đầu tiên là HQ Thiếu-Tá Nguyễn Thế Sinh.

- Liên-Đoàn 2 Tuần-Thám, hậu-cứ: TZYT/ Bến Lức, gồm các Giang Đoàn 53 TT, hậu-cứ: TZYT/ Bến Lức, và GD 54 TT, hậu-cứ: TPYT/ Bến Kéo, Tây Ninh. CHT đầu tiên là HQ Trung-Tá Phạm Văn Tiêu.

- Liên-Doàn 3 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCHQ/Tân Châu, gồm các Giang Đoàn 59 TT, hậu-cứ: CCHQ/Tân Châu, và Giang Đoàn 63 TT, hậu-cứ:Tiền Phương Yểm trợ/Phước Xuyên. CHT đầu tiên là HQ Trung-Tá Lưu Trọng Đa.

- Liên-Đoàn 4 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCHQ/Cái Dầu, Châu Đốc, gồm Giang Đoàn 55 TT, hậu-cứ: CCHQ/Cái Dầu, và 1 KSB. CHT đầu tiên là HQ Trung-Tá Đinh Vĩnh Giang.

- Liên-Đoàn 5 Tuần-Thám, hậu-cứ: Tiền Doanh Yểm Trợ/ Vĩnh Long (sau di-chuyển về TZYT/Rạch Sỏi, gồm các Giang-Đoàn 56 TT (Tiền Doanh Yểm Trợ/ Vĩnh Long) và GD 58 TT ,hậu-cứ: Tiền Phương Yểm Trợ/ Sa Đéc. CHT đầu tiên là HQ Trung-Tá Vơ-Trọng-Lưu.

- Liên-Đoàn 6 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCHQ/ Mỹ Tho, gồm các Giang Đoàn 60 TT (Tăng-phái cho BTL/V1ZH)) và GD 62 TT (hậu-cứ: Năm Căn, tăng-phái chi BTL/V5 ZH). CHT đầu tiên là HQ Trung-Tá Phạm Thành Nhơn.

III. Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 212 (LLĐN-212)

3.1 Tổ-chức Đặc-Nhiệm. Trên cương-vị hành-quân, Lực-Lượng Tuần-Thám (LLTT) được gọi là Lực lượng Đặc-Nhiệm 212 (LLĐN-212). LLĐN-212 gồm các đơn-vị tác-chiến cơ-hữu của LLTT, các đơn-vị tăng-phái thuộc các Vùng Sông ng̣i, Lực-Lượng Trung-Ương (LLTU), Lực-Lượng Thủy-Bộ (LLTB), các Tiền-Doanh và Tiền-Phương Yểm-Trợ Tiếp-Vận hiện-hữu trong vùng trách-nhiệm, các Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích thuộc Liên-Đoàn Người Nhái.

Trong tổ-chức đặc-nhiệm Hải-Quân, LLĐN-212 thống BTL/HQ/ Hành-Quân Sông và được tổ-chức thành 6 Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm (LĐĐN).

- LĐĐN-212.1 do Chỉ-Huy-Trưởng LĐ1/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồm có: GD 51TT, GD 52 TT, GD 57 TT, GD Trục Lôi, và 1 GD/XP, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Sông Đồng Nai và các sông rạch thuộc Đặc-Khu Rừng Sát.

- LĐĐN-212.2 (BCH tại hậu-cứ Bến Lức) do Chỉ-Huy-Trưởng LD2/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồm có: GD 53TT, GD 54 TT, 1 Giang-Đoàn Ngăn-Chặn do LLTU tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.

- LĐĐN-212.3 (BCH tại CCHQ/Tân Châu, Châu Đốc) do Chỉ-Huy-Trưởng LD3/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực thuộc hành-quân gồm có: GD 59TT,1 Giang Đoàn Ngăn-Chặn do LLTU tăng-phái, 1 Phân đội của Hải-Đội 5 Duyên-Pḥng, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Trách-nhiệm hành-quân hộ-tống công-voa trên thủy-tŕnh Tân-Châu - Nam-Vang (HQ THĐ-18)

- LĐĐN-212.4 (BCH tại CCHQ/Cái Dầu, Châu Đốc) do Chỉ-Huy-Trưởng LD2/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồ có: GD 55TT, GD 61 TT, và 1 GD/XP do V4SN tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Kinh Vĩnh Tế, Kinh Cái Sắn (Vàm Cống), Sông Bassac (HQ THĐ-1)

- LĐĐN-212.5 (BCH tại hậu-cứ Tiền-Doanh Yểm-Trợ Rạch Sỏi, Kiên-Giang) do Chỉ-Huy-Trưởng LD5/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực thuộc hành-quân gồm 1 phân-đoàn của GD 58 TT, 1 phân-đoàn của GD 61 TT, và 1 Giang-Đoàn Thủy-Bộ do LLTB tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái) . Vùng hành-quân: Sông Cái Lớn và Kinh Cái Sắn (phần phía Nam).

- LĐĐN-212.6 (BCH tại hậu-cứ Tiền-Doanh Yểm-Trợ Cà Mau, An Xuyên) do Chỉ-Huy-Trưởng LD6/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực thuộc hành-quân gồm GD 62TT , và 1 Giang-Đoàn Thủy-Bộ do LLTB tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Sông Bồ Đề, Sông Cửa Lớn và các kinh rạch bao quanh tỉnh-lỵ Cà Mau.

BTL/LLĐN-212 Tiền Phương do TL, TLP hoặc TMT Lực-Lượng trực-tiếp chỉ-huy, đặc-trách những cuộc hành-quân phối-hợp thủy-bộ và hộ-tống các đoàn công-voa trên thủy-tŕnh Tân Châu-NamVang.

3.2 Quan niệm hành-quân

- Tuần-tiễu và bảo vệ an ninh các thủy-tŕnh thuộc V3SN, V4SN, Biệt Khu 44 và Đặc Khu Rừng Sát.

- Truy lùng, phục kích, tấn công các đơn-vị địch trên các sông và kinh rạch trong vùng trách-nhiệm.

- Phối-hợp hành-quân với các đơn-vị bộ-binh và địa-phương-quân khi được chỉ-định.

- Hộ-tống các đoàn công-voa thương-thuyền trên thủy-tŕnh Tân Châu- NamVang

3.3 Trang-bị.

Mỗi Giang-Đoàn Tuần-Thám được trang-bị 20 Giang-Tốc-Đĩnh PBR, trong đó 5 Giang-Đoàn sử-dụng Giang-Tốc-Đĩnh PBR loại MK1 (GD 51, 53, 56 và 57 TT), và 10 Giang-Đoàn sử-dụng Giang-Tốc-Đĩnh PBR loại MK2. Cà hai loại PBR MK1 và MK2 đều không có chân vịt và bánh lái, nhưng được vận-chuyển bằng tác-dụng của hai bơm phản-lực.

3.3.1.  Giang Tốc Đĩnh PBR MK1

Đặc-tính kỹ thuật:

Vỏ: Được kiến-tạo bằng chất Fiberglass loại nhe. Chiều-dài: 31 ft. Bề ngang: 10.9 ft. Trọng-lượng: 19000 lbs. Vận-tốc: 28 knots. Máy: 2 máy Diesel hiệu Detroit hoặc GM kiểu 6V-53 với tổng-số công-xuất là 500 mă-lực.. Bom: 2 bơm phản-lực hiệu Jacuzzi Corporporation với lưu-lượng thoát 6000 gal/phút qua ống thoát, đường kính 6 inches.

Trang-bị vũ khí:

Sân mũi: một pháo-tháp đại-liên 50 kép, khai-hỏa bằng điện. Sân sau: Một đại-liên 50 đơn. Hai bên thành tàu: mỗi bên gắn một dàn trung-liên M-60 4 hoặc 6 ṇng như loại được gắn trên trực-thăng Cobra. Vũ-khí cá-nhân gồm có 4 súng M-16, 1 súng phóng lựu M-18 . Ngoài ra, một số (6 hoặc 7) Giang-Tốc-Đĩnh của mỗi Giang Đoàn Tuần-Thám c̣n được trang-bị đặc biệt hơn, với 1 súng cối 60 ly có khả-năng bắn trực xạ gắn cùng gía với đại-liên 50 ở sân sau, 1 súng phun lửa, 1 súng 90 ly không giật, một pháo-tháp đại-bác 20 ly ở sân mũi thay cho pháo-tháp súng đại-liên ṇng kép

Trang-bị đ́ện-tử:

1 Radar hiệu Raytheon 1900, 2 máy truyền tin URC-46.

            Trang-bị nhân-viên:

 Thuyền trưởng: 1 HSQ ngành Vận-chuyển hoặc Giám-lộ. Cơ-khí: 1 HSQ ngành Cơ-khí hoặc Điện-khí, Vũ-khí: 1 HSQ ngành Trọng-pháo. Đoàn-viên: 2 đoàn-viên từ cấp HS1 trở xuống. Khi Giang-Tốc-Đĩnh tham-dự hành-quân, mỗi cặp Giang-Tốc-Đĩnh có một Thượng sĩ /Chuẩn-Úy/Thiếu-Úy chỉ-huy.

3.3.2.  Giang Tốc Đĩnh PBR MK2

Đặc-tính kỹ thuật:

Vỏ: Được kiến-tạo bằng chất Fiberglass loại nhe. Chiều-dài: 31 ft 11 inches. Bề ngang: 11 ft 7 inches. Trọng-lượng: 15550 lbs. Vận-tốc: 28 Knots. Máy: 2 máy Diesel hiệu Detrroit hoặc GM kiểu 6V-53N với tổng-số công-xuất là 500 mă-lực.. Bom: 2 bơm phản-lực hiệu Jacuzzi loại 14YJ, với lưu-lượng thoát 9600 gal/phút qua ống thoát đường kính 8 inches.

Trang-bị vũ-khí:

Sân mũi: một pháo tháp đại-liên 50 kép, khai-hỏa bằng điện. Sân sau: Một đại-liên 50 đơn. Hai bên thành tàu: mỗi bên gắn một dàn trung-liên M-60 4 hoặc 6 ṇng như loại được gắn trên trực-hăng Cobra. Vũ-khí cá-nhân gồm có 4 súng M-16, 1 súng phóng lựu M-18. Ngoài ra, một số (6 hoặc 7) Giang-Tốc-Đĩnh của mỗi Giang Đoàn Tuần-Thám c̣n được trang-bị đặc biệt hơn, với 1 súng cối 60 ly có khả-năng bắn trực-xạ gắn cùng gía với đại-liên 50 ở sân sau, 1 súng phun lửa, 1 súng 90 ly không giật, 2 súng M-79 bắn liên-thanh từng tràng, 1 pháo-tháp đại-bác 20 ly kép ở sân mũi, thay thế cho pháo-tháp súng đại-liên 50 ṇng kép.

            Trang-bị đ́ện-tử:

1 máy  900 W, 2 máy truyền tin PRC-25

            Trang-bị nhân-viên:

Như trang-bị cho PBR MK-1.

3.4.3 Ưu và nhược điểm của các Giang-Tốc-Đĩnh PBR

            - Ưu-điểm: Với hỏa-lực mạnh và đa-dạng, Giang-Tốc-Đĩnh PBR có thể áp đảo mau chóng các ổ phục-kích của địch, và yểm-trợ hữu-hiệu cho các đồn bót và các đơn-vị bộ-binh trong các cuộc hành-quân phối-hợp thủy-bộ. Vận-tốc cao và dễ vận-chuyển

 

Lực-Lượng Trung-ương

(Lực-Lượng Đặc-nhiệm 214)

 

Tổ-chức: Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Trung-Ương đặt tại Đồng-Tâm (Mỹ Tho, thuộc tỉnh Định Tường) và được điều-động bởi: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.

Về hành-chánh, Lực-Lượng Trung-Ương gồm có:

- Liên-Đoàn Người Nhái.

- 2 Giang-Đoàn Trục-lôi

- 6 Giang-Đoàn Ngăn-chận và các Căn-cứ Hải-Quân tại Tuyên-Nhơn, Kinh Chợ Gạo, Cao Lănh.

            Giang-Đoàn Ngăn-chận được trang-bị cùng loại chiến-đĩnh với Giang-Đoàn Thủy-bộ và có thêm máy phun lửa.

Về hành-quân Lực-Lượng Trung-Ương được tăng-phái 2 Giang-Đoàn Tuần-Thám, 2 Giang-Đoàn Xung-phong.

Lực-Lượng Trung-ương có 300 Sĩ-quan và khoảng ba ngàn Đoàn-Viên. Lực-Lượng được chia làm 3 Liên-Đoàn. Mỗi Liên-Đoàn gồm 2 Giang-Đoàn và đặt dưới sự chỉ-huy của một Thiếu-Tá hoặc Trung-Tá Hải-Quân. Mỗi Giang-Đoàn Ngăn-chận được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc Đại-úy.

Hậu-cứ của các Liên-Đoàn:

- Liên-Đoàn 214.1 đóng tại Tuyên-Nhơn.

- Liên-Đoàn 214.2 đóng tại Kinh Chợ Gạo.

- Liên-Đoàn 214.3 đóng tại Cao Lănh.

Vùng hoạt-động: Miền Tiền Giang, từ bên này sông Cửu Long cho đến sông Vàm Cỏ, gồm các tỉnh-Định Tường, Vĩnh Long, Kiến Tường v.v...

Tư-Lệnh cuối cùng: Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Văn-Thông.

 

Liên-Đoàn Người Nhái

Thành-lập: Liên-đội Người Nhái được thành-lập năm 1961, gồm toàn quân-nhân t́nh-nguyện.[413]

            Ngay sau khi được thành-lập, 12 nhân-viên tốt-nghiệp khóa Biệt-hải UDT (Underwater Demolition Teams) tại Đài Loan huấn-luyện lại cho Người Nhái Hải-Quân.

Tổ-chức: Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Người Nhái trước đặt tại Ty Quân-cảng, trong Hải-Quân Công-xưởng, sau dời về Căn-cứ Hải-Quân Cát Lái.

- Tháng 10-1962, khóa Biệt-hải đầu-tiên tại Việt-Nam được huấn-luyện tại Đà Nẵng, bởi Người Nhái Mỹ (SEAL West coast) và một số Biệt-hải Việt-Nam tốt-nghiệp tại Đài Loan. Khóa này có một Sĩ-Quan duy nhất - Hải-Quân Trung-Úy Trịnh Ḥa Hiệp, xuất thân khóa 7 Hải-Quân Nha-Trang và một số Hạ-Sĩ-Quan Hải-Quân, c̣n hầu hết là nhân-viên Hải-Thuyền, gốc miền Trung.

- Khóa II Biệt-hải cũng được tổ-chức tương-tự như khóa 1. Hải-Quân Thiếu-Úy Phan Tấn Hưng, xuất-thân khóa 9 Hải-Quân Nha Trang, là Sĩ-Quan Hải-Quân thứ hai theo thụ-huấn.

            Các khóa kế tiếp được huấn-luyện tại các địa-điểm khác nhau: Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu...

Huấn-luyện: Biệt-hải được huấn-luyện như một điệp-viên chiến-tranh thuần-túy để thích-nghi với mọi môi-trường như lặn, đổ-bộ và nhảy trực-thăng từ một cao-độ khá nguy-hiểm mà không cần dù. Biệt-hải biết sử-dụng tất cả loại vũ-khí, của ta lẫn của địch, và có khả-năng xâm-nhập, trốn thoát và sống c̣n (survival).

            Thời-gian huấn-luyện là mười sáu tuần-lễ, kể luôn cả "tuần-lễ địa-ngục". Muốn vượt qua "Tuần-lễ địa-ngục", học-viên phải qua các thử-thách sau đây: Chèo ghe 115 dậm, chạy bộ 75 dậm, mang thuyền phao đi 21 dậm và bơi 10 dậm.

            Khóa Biệt-hải đầu-tiên tại Việt-Nam ra trường vào tháng Giêng năm 1965. Khóa này xin chuyển sang Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải, chuyên thi-hành công-tác xâm-nhập miền Bắc, từ bắc vĩ-tuyến 17.

            Trước năm 1968, Liên-đội Người Nhái chỉ phụ-trách các công-tác thám-sát hành-quân, đổ-bộ, lặn, vớt tàu.

            Từ năm 1968 trở về sau, khả-năng Người Nhái Hải-Quân Việt-Nam được tận-dụng đúng mức khi Liên-Đoàn Người Nhái bắt đầu biệt-phái nhân-viên cho các toán Người Nhái Mỹ (SEAL team) khắp bốn vùng chiến-thuật và cho cả chiến-dịch Phụng Hoàng.

            Năm 1971, một số Sĩ-Quan trẻ, xuất-thân từ trường Bộ-Binh Thủ-Đức t́nh-nguyện gia-nhập và được huấn-luyện theo các khóa Hải-Kích Người Nhái Việt-Nam.

            Từ 1968 đến 1972, quân-số Người Nhái từ 80 tăng lên 600 người. Liên-đội Người Nhái trở thành Liên-Đoàn Người Nhái, gồm có: Hải-Kích (SEAL), Biệt-hải (UDT - Underwater Demolition Teams), Tháo gỡ đạn dược (EOD - Explosive Ordinance Disposal), Trục vớt (vớt tàu), Pḥng-thủ hải-cảng, Giang-Đoàn yểm-trợ Hải-Kích (chuyên-chở hành-quân) và Toán yểm-trợ tiếp-vận.

Nhiệm-vụ: Nhiệm-vụ Người Nhái rất chuyên-biệt như: xâm-nhập vùng đất địch, chống đặc-công thủy Việt-Cộng, với tàu, cứu tù-binh, v.v...

Phạm-vi hoạt-động: Người Nhái có thể hoạt-động trong sông lẫn ngoài biển.

            Sau khi Hoa-kỳ rút chân khỏi Việt-Nam, Đại-đội Hải-Kích được biệt-phái cho các Giang-Đoàn, Duyên-Đoàn hay các Căn-cứ Hải-Quân khắp lănh-thổ. Nhiệm-vụ của Hải-Kích (SEAL) cũng tương-tự như Biệt Kích, nghĩa là đột nhập vào các mục-tiêu ven biển hoặc sông rạch. Một toán Hải-Kích được biệt-phái thường-trực cho Căn-cứ Hải-Quân Năm Căn. Đại-đội vớt tàu với các tàu trục vớt trang-bị dụng-cụ lặn và trục vớt, lưu-động các nơi, nhất là Vùng IV sông ng̣i. Đại-đội tháo gỡ đạn-dược (EOD) cũng biệt-phái nhân-viên đi các Bộ Chỉ-Huy vùng.

            Bất cứ lúc nào Liên-Đoàn Người Nhái cũng có từ 15 đến 20 toán thuộc các ngành, được biệt-phái các nơi.

            Chỉ-Huy-Trưởng cuối cùng: Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Ḥa Hiệp.

Kể từ ngày có ba đơn-vị được thành-lập vào năm 1970 th́ Liên-Đội Người Nhái được đổi danh-hiệu là Liên-Đoàn Người Nhái. Do đó Liên-Đoàn Người Nhái có ba đơn-vị chính-thức và mỗi đơn-vị chịu trách-nhiệm hoạt-động theo những ngành chuyên-môn riêng biệt của họ.

- Đơn-vị Hải-Kích SEAL (Sea, Air and Land) chuyên về đột-kích bất thần vào các sào huyệt của địch, đơn-vị này đă tạo được rất nhiều-chiến-công oanh liệt. Họ đă tấn-công chớp nhoáng vào các mật-khu của địch, nhất là trong lúc có buổi họp mặt của các cán-bộ cao-cấp của địch. Họ đă đánh và giải thoát các tù binh. Họ đă ngụy-trang với quần áo bà ba đen và trang-bị súng AK 47, đội nón cối, đi dép B́nh Trị Thiên giống hệt như quân Việt Cộng để hoạt-động trong ḷng đất địch.

Có khá nhiều huyền-thoại về đơn-vị nhỏ bé, chỉ có trên dưới 100 người này. Người ta kể rằng nhiều-khi họ đă len lỏi vào hàng ngũ địch, ngồi ăn cơm với chúng mà chúng không biết. Đă nhiều-lần họ đột-kích bí mật vào lănh thổ miền Bắc bằng xuồng cao su và bơi từ ngoài khơi vào bờ. Trong thời-gian cuộc chiến Việt-Nam kéo dài đơn-vị này đă làm cho một số đơn-vị Việt Cộng ăn không ngon, ngủ không yên, v́ không c̣n biết đâu là nơi an-toàn.

- Đơn-vị Biệt-hải UDT (Underwater Demolition Teams). Căn bản của Lực-Lượng Người Nhái đi từ 12 nhân-viên tốt-nghiệp khóa Biệt-hải UDT năm 1960 tại Đài Loan.

Các khóa Huấn-luyện trong nước như sau

- Năm 1961, một khóa Biệt-Hải được tổ-chức tạï Đà-Nẵng với 35 khóa-sinh.

- Năm 1962, Khóa II Biệt-hải cũng được tổ-chức tương-tự như khóa 1

- Năm 1963, Khóa I Người Nhái tại Nha Trang có 41 người đều tốt nghiệp.

- Năm 1965, Khóa II Người Nhái tại Nha Trang có 48 người tốt nghiệp

- Khóa III tại Vũng Tàu có 45 người tốt nghiệp vào năm 1968.

- Các Khóa IV - V - VI tại Cam Ranh với khoảng 150 người cho cả ba khóa.

Nhiều Người Nhái tốt-nghiệp các khóa này phục-vụ cho Biệt-Hải. Đơn-vị thi-hành các công-tác Đặc-công và chống Đặc-công thủy của địch. Người Nhái này chuyên phá huỷ các chướng ngại vật tại các bờ biển và hải cảng cũng như đặt ḿn phá tàu địch.

Một toán Biệt-Hải này đă có mặt tại Hoàng-Sa vào tháng 1 năm 1974.

- Đơn-vị Tháo Gỡ Chất Nổ EOD (Explosive Ordance Disposal). Miền Nam nước Việt có nhiều-sông rạch v́ vậy Việt Cộng lúc nào cũng t́m cách làm tắc nghẹn các thủy-lộ của chúng ta bằng cách đánh ch́m tàu bè của chúng ta để cản trở sự lưu-thông bằng đường thủy. V́ vậy mỗi lần có tàu ch́m ở đâu là Đơn-vị Trục Vớt được cấp-thời phái tới để giải tỏa lưu-thông. Đơn-vị này đ̣i hỏi người chỉ-huy phải giỏi tính toán, biết nhiều-vê kỹ-thuật và có nhiều-kinh-nghiệm.

            Vào năm 1968 cho tới khi chấm-dứt chiến-tranh Việt Cộng tăng cường phá-hoại bằng cách thả Người Nhái đột-kích phá-hoại các tàu bè của ta và Đồng-Minh neo và đậu tại các bến, và trong các sông ng̣i. Đơn-vị Tháo Gỡ Chất Nổ (EOD) đă hoạt-động chống Người Nhái địch một cách rất hữu-hiệu. Họ đă bắt sống và tiêu diệt nhiều-Người Nhái địch và tháo gỡ nhiều-trái ḿn nổ chậm do Người Nhái Việt Cộng đặt vào tàu bè của ta.[414].

 

Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99

Thành-lập: Đây là lực-Lượng sau cùng do vị Tư-Lệnh cuối cùng của Hải-Quân thành-lập và trực-tiếp điều-động.

            Ngay sau khi trở lại nhậm chức Tư-Lệnh Hải-Quân lần thứ hai, Phó Đô Đốc Chung-Tấn-Cang ra lệnh thành-lập Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99 trong ṿng 24 tiếng đồng-hồ.

Sau khi được thành-lập, Lực-Lượng 99 được đưa về Căn-cứ Hải-Quân Nhà Bè.

Tổ-chức: V́ tính-cách cấp-thời, Bộ Tham-Mưu Lực-Lượng chỉ gồm có: Chỉ-Huy-Trưởng, một Trung-úy, một Tài xế và một Thượng-Sĩ vô-tuyến!

Trang-bị: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99 gồm trên 50 chiến-đĩnh, là sự kết-hợp của các Giang-Đoàn: 42 Ngăn-chận, 59 Tuần-Thám, một phần của Giang-Đoàn 22 Xung-phong, một toán trục vớt, một toán Tiền-Phong-Đĩnh, một Trung-đội Hải-kích và 3 súng phun lửa.

Phạm-vị hoạt-động: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99 được coi là Lực-Lượng tổng-trừ-bị của Hải-Quân, với mục-đích giải-tỏa áp-lực nặng của địch ở bất cứ nơi nào, thuộc phạm-vị hoạt-động của Hải-Quân.

            Chỉ-Huy-Trưởng đầu-tiên và cũng là cuối cùng: Hải-Quân Đại-Tá Lê-Hữu-Dơng.

 

Liên-Đoàn Tuần-Giang

Thành-lập: Để đáp-ứng nhu-cầu chiến-trường, Lực-Lượng Giang-pḥng được thành-lập và trực-thuộc Bộ Tư-lệnh Địa-Phương-Quân.

            Về sau, danh-xưng Lực-Lượng Giang-pḥng được đổi là Liên-Đoàn Tuần-giang, trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân.[415]

Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang đặt tại Sài-G̣n.

Tổ-chức: Liên-Đoàn Tuần-Giang gồm các thành-phần:

- Trung-tâm Huấn-Luyện Tuần-giang

- 3 Đại-đội sửa chữa đặt tại Sài-G̣n, Cần Thơ và Mỹ Tho.

- 24 Đại-đội, kể từ Đại-đội 11 Tuần-Giang đến Đại-đội 35 Tuần-Giang, biệt-phái cho các Tiểu-khu thuộc Vùng 3 và Vùng 4 Chiến-Thuật.

Mỗi Đại-đội Tuần-Giang được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc Đại-úy.

Khóa Tuần-Giang đầu-tiên do Hải-Quân huấn-luyện. Sau đó, Trung-Tâm Huấn-luyện Tuần-Giang được thành-lập tại Cát Lái, bắt đầu huấn-luyện các khóa Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Binh-Sĩ Tuần-Giang.

Quản-trị:

a). Hành-chánh: Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Tuần-giang trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân về quản-trị nhân-viên, thuyên-chuyển, bổ-nhậm, tiếp-liệu, sửa chữa, v.v...

b). Hành-Quân: Đại-đội Tuần-Giang đặt dưới sự điều-động và sử-dụng của Tiểu-Khu.

Trang-bị: Mỗi Đại-đội Tuần-Giang được trang-bị 8 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP.

Mỗi giang-đĩnh trang-bị Đại-liên 50, Đại-liên 30 và M72. Riêng Đại-đội 19 và 27 Tuần-giang được tăng-cường thêm 1 Quân-Vận-Đĩnh LCM-6.

Nhiệm-vụ: Mỗi Tiểu-khu được tăng-phái một hay hai Đại-đội Tuần-Giang để thực-hiện các nhiệm-vụ sau đây:

 - Chuyên-chở Bộ-Binh và phối-hợp các đơn-vị bạn tham-dự các cuộc hành-quân do Tiểu-Khu tổ-chức.

- Kiểm-soát ghe thuyền để khám-phá và ngăn-chận sự xâm-nhập của địch.

- Tuần-tiễu và giữ an-ninh các cầu cống trên các thủy-tŕnh do Tiểu-Khu chỉ-định.

- Bảo-vệ an-ninh các xă ấp, yểm-trợ hỏa-lực và tiếp-viện đồn bót ven sông.

- Hộ-tống xà lan đạn, dầu, thực phẩm, v.v...

Chỉ-Huy-Trưởng cuối cùng: Đại-Tá Cơ-Khí Nguyễn-Văn-Kinh.

 

Hành-Quân Lưu-động Biển

Tổng-Quát. Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Biển, gọi tắt là Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân Biển (BTL/HhQ Biển), được thành-lập vào giữa năm 1972 tại Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân.

BTL/HhQ Biển do vị Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân / Hành-Quân Biển trách-nhiệm điều-hành. Trong thời-gian đầu, chức-vụ này do HQ Đại-Tá Nguyễn-Hữu-Chí đảm-nhiệm. Ông thăng-cấp Phó Đề-Đốc sau đó.

Sau khi Phó Đề-Đốc Nguyễn-Hữu-Chí rời BTL/HhQ Biển vào tháng 11 năm 1973 để giữ chức-vụ Tư-Lệnh Vùng 3 Sông-Ng̣i, HQ Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê được chỉ-định làm Tham-Mưu-Trưởng BTL/HhQ Biển (từ tháng 11 năm 1973 đến tháng 4 năm 1975).

Tổ-chức: Hành-Quân Lưu-động Biển trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân. Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Lưu-động Biển chịu trách-nhiệm tất cả những cuộc hành-quân trên biển.

Nhiệm-vụ:

- Tổ-chức hành-quân trên biển, ven duyên-hải và các hải-đảo

- Chỉ-huy và điều-động các Lực-Lượng Đặc-nhiệm để bảo-vệ lănh-hải và các hải-đảo.

- Yểm-trợ hành-quân cho 4 Vùng Chiến-thuật.

- Ngăn-chặn Việt-Cộng xâm-nhập bằng đường biển.

- Bảo-vệ thương-thuyền và các giếng dầu hỏa ở ngoài khơi Việt-Nam

- Cứu-cấp hàng-hải (viết tắt là Cư-Hà)

Thành-phần Lực-lượng

- Hành-Quân Biển gồm có 5 Lực-Lượng Đặc-nhiệm (LLĐN) hoạt-động tại 5 Vùng Duyên-Hải. Các Tư-lệnh Vùng Duyên-Hải kiêm-nhiệm chức-vụ Tư-lệnh Lực-Lượng Đặc-Nhiệm, gồm có:

- LLĐN 11 ở V1DH (Đà-Nẵng)

- LLĐN 21 ở V2DH (Nha-Trang)

- LLĐN 31 ở V3DH (Cam-Ranh)

- LLĐN 41 ở V4DH (Phu-Quốc)

- LLĐN 51 ở V5DH (Cà-Mau)

 

Lực-Lượng Duyên-pḥng

Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng đồn-trú tại Cam-Ranh.

Lực-Lượng Duyên-pḥng gồm có 5 Hải-đội Duyên-Pḥng.

            - HĐ1/ZP       Đồn-trú tại Đà-Nẵng:            7WPB và 20 PCF.

            - HĐ2/ZP       Đồn-trú tại Qui-Nhơn:8 WPB và 20 PCF.

Hải-Đội 2 Duyên-Pḥng chia thành 2 Phân-Đội:

* PĐ21/ZP Hậu-cứ Qui-Nhơn.

* PĐ22/ZP Hậu-cứ Cam-Ranh.

            - HĐ3/ ZP      Đồn-trú tại Cát-Lở:               6 WPB và 20 PCF.

            - HĐ4/ ZP      Đồn-trú tại An-Thới: 4 WPB và 20 PCF.

            - HĐ5/ ZP      Đồn-trú tại Năm-Căn:           36 PCF.

Trang-bị: Các Hải-đội Duyên-pḥng được trang-bị các chiến-đĩnh có vận-tốc cao hơn ghe hải-thuyền rất nhiều:

-         Duyên-Tốc-Đĩnh (PCF - Fast Patrol Craft) 28 gút và

-         Tuần-Duyên-Đĩnh (Coast Guards) 18 gút. Vũ-khí chính trang-bị là Súng Cối 81 ly, bên trên là Đại-liên 12 ly 7.

Lực-Lượng Duyên-pḥng (danh-từ Hành-Chánh) thường c̣n được gọi một cách quen thuộc và nhầm lẫn là LLDN 213 (danh-từ Đặc-nhiệm) hay Hành-Quân Biển (bao trùm tất cả 5 Vùng Duyên-Hải).

Hành-quân. Các Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm tuần-tiễu tại 5 Vùng Duyên-Hải trực-thuộc Lực-Lượng Đặc-nhiệm 213.

Sau này vào năm 1972, Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng được giải-tán, các Hải-đội Duyên-pḥng sáp-nhập vào các Vùng Duyên-Hải. Trách-nhiệm tuần-tiễu do TL/HQ Vùng Duyên-Hải trách-nhiệm trong vùng chỉ-định, báo cáo thẳng về bộ Tư-Lệnh Hải-Quân qua Trung-tâm Hành-Quân tại Sài-G̣n.

            Cựu Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng được chỉ-định Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Biển. Giới-chức đó là Phó Đề-Đốc Nguyễn-Hữu-Chí.

 

Sơ-đồ Tổ-Chức Ban Tham-Mưu Lưc-Lượng Duyên-Pḥng

Để phối hợp điều-hành cả hai hệ-thống Hành-Chánh của Lực-Lượng và hệ-thống Hành-Quân của LLĐN 213, Ban Tham-Mưu gồm có:

-Tư-Lệnh Lực-Lượng. (Văn-pḥng Tư-Lệnh và Sĩ-Quan Tuỳ-Viên)

-Tư-Lệnh Phó Lực-Lượng.

-Khối Hành-Quân và Khối Yểm-Trợ.

-Pḥng Hành-Quân:điểu-hành 5 TTKSDH tại các LĐĐN của LL 213.

-Pḥng T́nh-Báo: Thu nhận Tin-Tức T́nh-Báo.-Pḥng Truyền-Tin (ViễnẤn): điều-hành Trung-Tâm Vô-Tuyến Cam-Ranh.

-Pḥng An-Ninh: (An-Ninh Nội-Bộ Lực-Lượng).

-Pḥng Nhân-Viên: Quản-Trị Nhân-Viên trong Lực-Lượng.

-Pḥng Hành-Chánh: Quyền-lợi, lương-bồng của nhân-viên Lực-Lượng .

-Pḥng Tiếp-Liệu Lo thủ-tục xin cấp-phát nhu-cầu Tiếp-Liệu cho LLZP và Hải-Đội.

-Pḥng CTCT: Lo việc học-tập chính-tri và tâm-lư-chiến cho LLZP.

 

 

 

Sơ-đồ Tổ-Chức Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Duyên-Pḥng

 

Hạm-Đội

Tiền-thân của Hạm-Đội là Hải-Lực. Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Lực những ngày đầu là HQ Đại-Úy Lâm-Nguơn-Tánh. Sau Đại-Úy Tánh đến Hải-Quân Đại-Úy Nguyễn-Vân, rồi Đại-Úy Dư-Trí-Hùng Xử-lư Thường-vụ chức-vụ này ít tháng.[416].

Hải-Quân Đại-Úy Nghiêm-Văn-Phú tiếp theo Đại-Úy Hùng là vị Chỉ-Huy-Trưởng nắm Hải-Lực nhiều-năm. Ông thăng-cấp Thiếu-Tá trong chức-vụ, thường được coi như người đă đặt mẫu mực cho Hải-Lực những năm về sau.

            Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội đặt trong ṿng thành của Hải-Quân Công-xưởng. Hạm-Đội là một đại đơn-vị hành-chánh, được điều-động bởi: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng.

            Hạm-Đội gồm 3 Hải-đội: Hải-đội 1 Tuần-duyên, Hải-đội II Chuyển-vận, Hải-đội III Tuần-Dương.

            Thành-phần và nhiệm-vụ các Hải-đội được quy-định như sau:

- Hải-đội I Tuần-Duyên gồm các loại: Tuần-Duyên-Hạm (PGM - Motor Gunboat), Giang-Pháo-Hạm (LSIL - Landing Ship, Infantry, Large), Trợ-Chiến-Hạm (LSSL - Landing Support Ship, Large)... Nhiệm-vụ tuần-tiễu, kiểm-soát địch vùng cận-duyên.

- Hải-đội II Chuyển-Vận gồm các loại: Dương-Vận-Hạm (LST - Landing Ship, Tank), Hải-Vận-Hạm (LSM - Landing Ship, Medium), Giang-Vận-Hạm (LCU - Landing Craft, Utility), Hoả-Vận-Hạm (YOG - Gasoline Barge, Self-propelled)... Nhiệm-vụ hành-quân đổ-bộ, yểm-trợ tiếp-vận, y-tế, sửa-chữa.

- Hải-đội III Tuần-dương gồm các loại: Hộ-Tống-Hạm (PCE - Patrol Craft Escort), Tuần-dương-Hạm (WHEC), Khu-Trục-Hạm (DER - Radar Picket Escort)... Nhiệm-vụ tuần-tiễu, ngăn-chận, nghênh-chiến khi tàu địch xâm-nhập Hải-phận Việt-Nam.

            Các chiến-hạm Hạm-Đội được biệt-phái hoạt-động khắp bốn vùng chiến-thuật, từ vĩ-tuyến 17 đến Cà-Mau, cả biển lẫn sông.

            Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Hải-Quân Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê được bổ-nhiệm thay-thế Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn ở chức-vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội.

            Hạm-Đội gồm các đơn-vị ṇng-cốt của Hải-Quân Việt-Nam với các chiến-hạm có khả-năng hoạt-động ngoài biển.

            Hạm-Đội VNCH được tổ-chức thành 3 Hải-Đội: Hải-Đội I, Hải-Đội II và Hải-Đội III. Nhiệm-vụ các Hải-Đội như sau:

 

 

Sơ-đồ Tổ-chức Hạm-Đội.

 

 

- Hải-Đội I:

Có nhiệm-vụ tuần-tiễu bảo-vệ lănh-hải và vùng cận-duyên, chống lại mọi hoạt-động bất-hợp-pháp; yểm-trợ Hải-pháo và phối-hợp hành-quân với các đơn-vị bạn.